Trong tố tụng hình sự, vấn đề thu thập chứng cứ có vai trò rất quan trọng trong việc xác định sự thật vụ án. Trong đó, người bào chữa với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị buộc tội có quyền được thu thập chứng cứ theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, vấn đề thu thập chứng cứ của người bào chữa tại giai đoạn điều tra vụ án hình sự còn gặp nhiều vấn đề khó khăn và bỏ ngỏ. Vì vậy, vấn đề hoàn thiện pháp luật về bảo đảm quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa tại giai đoạn điều tra là rất cần thiết và có ý nghĩa quan trọng trong quá trình bảo vệ quyền lợi cho người bị buộc tội và góp phần làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án, tránh oan sai trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Một số vấn đề chung về quyền thu thập chứng của người bào chữa tại giai đoạn điều tra vụ án hình sự
Vai trò của giai đoạn điều tra vụ án hình sự
Giai đoạn điều tra được bắt đầu từ sau khi quyết định khởi tố vụ án hình sự được phê chuẩn và kết thúc khi cơ quan điều tra hoàn thành bản kết luận điều tra và đề nghị truy tố người phạm tội. Điều tra vụ án hình sự là một giai đoạn của tố tụng hình sự. Trong đó, cơ quan điều tra và các cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra được sử dụng các biện pháp do luật tố tụng hình sự quy định để thu thập chứng cứ xác định sự thật vụ án, chứng minh tội phạm, chủ thể thực hiện tội phạm và những vấn đề khác có liên quan đến vụ án làm cơ sở cho việc truy tố, xét xử. Hơn nữa, thông qua giai đoạn này, cơ quan điều tra xác định nguyên nhân, điều kiện phạm tội với từng vụ án cụ thể và yêu cầu các biện pháp khắc phục, ngăn ngừa từ phía cơ quan và tổ chức hữu quan.
Như vậy, giai đoạn điều tra có vai trò rất quan trọng, giai đoạn này sẽ có nhiệm vụ xác định tội phạm, xác định người thực hiện hành vi phạm tội và xác định nguyên nhân, điều kiện phạm tội, kiến nghị các cơ quan, tổ chức hữu quan thực hiện biện pháp phòng ngừa. Khi tiếp nhận được nguồn tin về tội phạm cơ quan điều tra có nhiệm vụ thu thập các chứng cứ để xác định có hay không có sự việc phạm tội xảy ra. Do vậy, trong giai đoạn điều tra, người bào chữa có vai trò quan trọng. Với tư cách là người bị buộc tội thì môi trường tư pháp hình sự dễ tác động tiêu cực và tổn thương đến họ. Môi trường này có tính chất đặc thù, phức tạp và mang sự cưỡng chế nghiêm khắc của Nhà nước, thậm chí còn có thể bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng nghiêm khắc như tạm giữ, tạm giam, các biện pháp ngăn chặn, biện pháp hạn chế quyền con người nên người người bị buộc tội rất dễ bị tổn thương.
Theo đó, họ bị cưỡng chế thực hiện những hoạt động, công việc nhất định, quyền tự do bị hạn chế, thậm chí còn bị cách ly ra khi đời sống xã hội hoặc bị tước đoạt mạng sống. Họ phải đối mặt với đội ngũ cán bộ trong tư pháp hình sự được pháp luật trao quyền lực với công cụ, phương tiện hỗ trợ nghiêm khắc nên dễ thực hiện nhiệm vụ “vượt quá mức cần thiết”, cùng với việc họ mặc cảm, thái độ chấp nhận hoặc không biết rằng quyền của mình đang bị xâm hại. Vì vậy, người bào chữa là người có hiểu biết pháp luật sâu sắc, có nhiệm vụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội và nắm bắt rõ các quyền mà người bị buộc tội có được trong giai đoạn điều tra. Thông qua hoạt động của mình, người bào chữa góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, đưa ra các lập luận, chứng cứ chứng minh về không có dấu hiệu của tội phạm.
Hơn nữa, người bào chữa còn đại diện cho tiếng nói của người bị buộc tội, thay mặt họ thực hiện những vấn đề được pháp luật cho phép, kịp thời nắm bắt, hiểu những nguyện vọng, phát hiện ra những sai phạm vi phạm quyền con người trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự để phản ánh lên cơ quan có thẩm quyền. Hơn nữa, người bào chữa được sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình tiết xác định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo. Căn cứ vào các lập luận, chứng cứ mà người bào chữa đưa ra, cơ quan tiến hành tố tụng có thể xác thực, đánh giá và xem xét tránh để những trường hợp oan sai xảy ra.
Khái niệm quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa tại giai đoạn điều điều tra
Trong quá trình xử giải quyết vụ án hình sự, các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ có thể ra các quyết định hoặc bản án dựa trên cơ sở các chứng cứ chứng minh về sự việc phạm tội cũng như con người thực hiện tội phạm và những tình tiết khác có liên quan. Tội phạm khi thực hiện bao giờ cũng để lại dấu vết bên ngoài thế giới khách quan, do đó khi tiến hành chứng minh làm rõ vụ án cần phải thu thập các dấu vết tội phạm để lại làm căn cứ để khôi phục toàn bộ diễn biến của vụ án đưa đến nhận thức đúng đắn mang tính khách quan về tội phạm. Điều 86, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 định nghĩa về chứng cứ như sau: “Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định, được dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án”.
Như vậy, nhận thấy chứng cứ có vai trò rất quan trọng trong quá trình điều tra và giải quyết vụ án hình sự. Chứng cứ là những sự vật, hiện tượng có thật và thống nhất không thể tách rời, vì vậy xem xét từng thuộc tính của chứng cứ phải trong mối liên hệ với các thuộc tính khác và trong mối quan hệ tổng thể gồm: Tính khách quan, tính liên quan, tính hợp pháp.
Trong tố tụng hình sự, người bào chữa có vị trí và vai trò quan trọng, không những có trách nhiệm bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mà còn góp phần làm rõ các tình tiết liên quan đến vụ án, đảm bảo công bằng trong quá trình giải quyết vụ án. Người bào chữa là một loại người tham gia tố tụng, là người được người bị buộc tội nhờ bào chữa hoặc cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chỉ định và được cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tiếp nhận việc đăng ký bào chữa [1]. Theo quy định của Điều 72, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 thì người bào chữa bao gồm: Luật sư; người đại diện của người bị buộc tội; bào chữa viên nhân dân; trợ giúp viên pháp lý. Trong đó có luật sư – người có đủ điều kiện hành nghề theo quy định của Luật Luật sư và tham gia hoạt động tố tụng, thực hiện tư vấn pháp luật, các dịch vụ pháp lý khác theo yêu cầu của cá nhân, tổ chức nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ theo yêu cầu của cá nhân, tổ chức nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ theo quy định pháp luật.
Khoản 2, Điều 88, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã bổ sung quy định: “Để thu thập chứng cứ, người bào chữa có quyền gặp người mà mình bào chữa, bị hại, người làm chứng và những người khác biết về vụ án để hỏi, nghe họ trình bày về những vấn đề liên quan đến vụ án; đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến việc bào chữa”. Điều này đồng nghĩa với việc lần đầu tiên tố tụng hình sự Việt Nam đã trực tiếp thừa nhận “người bào chữa là chủ thể có quyền thu thập chứng cứ” trong quá trình thực hiện hoạt động gỡ tội cho thân chủ của mình. Đây là một quy định rất tiến bộ, thể hiện sự đổi mới trong tư duy lập pháp khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của Luật sư trong việc góp phần làm rõ sự thật khách quan của vụ án.
Từ các phân tích trên, có thể hiểu, quyền thu thập chứng của người bào chữa tại giai đoạn điều tra vụ án hình sự là quyền của những người có vai trò bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị buộc tội được tiến hành các hoạt động thu thập, đưa ra tài liệu, chứng cứ chứng minh các vấn đề khách quan của vụ án theo quy định của pháp luật trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự góp phần làm rõ các tình tiết liên quan đến vụ án, bảo đảm công bằng, công lý và các quyền, lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội.
Quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa tại giai đoạn điều tra theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam
Người bào chữa luôn theo sát quá trình giải quyết vụ án, thu thập các chứng cứ, tài liệu theo đúng quy định của pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của thân chủ, đó là các chứng cứ gỡ tội, chứng cứ có lợi cho người bị buộc tội. Trong giai đoạn điều tra, việc thu thập chứng cứ của luật sư được chủ động thực hiện thông qua các hoạt động sau:
Thứ nhất, nhóm quyền trực tiếp thu thập chứng cứ. Đây là nhóm các quyền người bào chữa được trực tiếp tham gia vào các hoạt động, biện pháp điều tra theo quy định của pháp luật để thu thập chứng cứ liên quan đến vụ án, các quyền được quy định chung tại Điều 73, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Tại nhóm quyền này, người bào chữa có quyền gặp người mà mình bào chữa, bị hại, người làm chứng và những người khác biết về vụ án để hỏi, nghe những vấn đề họ mà họ trình bày liên quan đến vụ án. Đồng thời, người bào chữa để cho người mình bào chữa trình bày, xác minh tính xác thực trong các biên bản ghi lời khai do cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện. Lời trình bày của những người này có vai trò quan trọng, có thể trở thành chứng cứ được sử dụng trong vụ án hình sự, có thể giúp người bị buộc tội bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của mình, góp phần quan trọng trong việc làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án.
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 còn quy định, người bào chữa được có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu người có thẩm quyền tiến hành lấy lời khai, hỏi cung đồng ý thì được hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can. Sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung của người có thẩm quyền kết thúc thì người bào chữa có thể hỏi người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can. Sự có mặt của người bào chữa trong hoạt động hỏi cung, lấy lời khai sẽ giúp người bào chữa có cái nhìn toàn diện hơn, đồng thời góp phần bảo đảm sự khách quan, đúng trình tự và trấn an tinh thần người bị buộc tội mà mình bào chữa chữa. Điều này cũng được thể hiện khi người bào chữa có mặt trong hoạt động đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói và hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Ngoài ra, người bào chữa được xem biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình, quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa.
Về vấn đề gặp người bị buộc tội được quy định tại Điều 12, Thông tư số 46/2019/TT-BCA, cụ thể: “Cơ quan điều tra, Cơ sở giam giữ không được hạn chế số lần và thời gian trên một lần gặp của người bào chữa với người bị tạm giữ, bị can đang bị tạm giam. Người bào chữa phải tuân thủ quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015, các văn bản hướng dẫn thi hành và nội quy cơ sở giam giữ”. Như vậy, thông qua quyền được pháp luật cho phép về việc người bào chữa được tự mình thực hiện các hoạt động thu thập chứng cứ đúng quy định của pháp luật sẽ giúp quá trình giải quyết vụ án được nhanh chóng hơn, góp phần bảo vệ được công lý, công bằng trong giai đoạn điều tra. Các hoạt động gặp, hỏi người bị buộc tội, người làm chứng, bị hại giúp người bào chữa nắm bắt được các tình tiết được rõ ràng, tiến hành phân tích, đánh giá và thu thập được những thông tin, chứng cứ quan trọng, có ý nghĩa và giá trị vào việc chứng minh, lập luận được khách quan, đúng pháp luật, thấu tình, đạt lý. Qua đó, kịp thời kiến nghị, phản ánh và nộp cho cơ quan có thẩm quyền chứng cứ mà người bào chữa thu thập được nhằm làm rõ ràng, sáng tỏ tình tiết khách quan của vụ án, tránh oan sai, nhầm lẫn trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Hơn nữa, quá trình trình trao đổi, gặp, hỏi người bị buộc tội, người bào chữa sẽ có cái nhìn toàn diện, tìm ra những điểm chưa trùng khớp với các chứng cứ mà cơ quan điều tra cung cấp, giữa các lời khai của các chủ thể có sự mâu thuẫn với nhau, từ đó, họ sẽ tìm ra những chứng cứ nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người mà họ bào chữa.
Thứ hai, quyền được yêu cầu cơ quan điều tra thực hiện các biện pháp thu thập chứng cứ. Đây là các quyền của người bào chữa thông qua việc đề nghị, yêu cầu cơ quan có thẩm quyền tạo điều kiện cho người bào chữa thực hiện các biện pháp thu thập chứng cứ theo quy định của pháp luật. Theo quy định tại Điều 73, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, người bào chữa có quyền kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá. Đồng thời, người bào chữa có quyền đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ, giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản.
Như vậy, thông qua các hoạt động này, người bào chữa có thể đề nghị cơ quan tiến hành tố tụng tiến hành các hoạt động theo quy định để kiểm tra, đánh giá chứng cứ. Điều này sẽ giúp người bào chữa nếu thấy có sự mâu thuẫn trong chứng cứ với nhau có điều kiện đề nghị người có thẩm quyền xem xét lại nhằm phát hiện ra những sai sót, những điểm bất thường trong chứng cứ để xử lý kịp thời. Ngoài ra, người bào chữa có có quyền được đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa từ khi kết thúc điều tra. Việc được sao chụp, ghi chép tài liệu trong hồ sơ vụ án giúp người bào chữa biết những vấn đề đang được điều tra, làm rõ để kịp thời thu thập các chứng cứ có ý nghĩa và liên quan đến việc chứng minh, làm rõ vụ án, bảo đảm tính công bằng, khách quan và đúng pháp luật. Các quy định liên quan đến việc đề nghị cơ quan có thẩm quyền thu thập các tài liệu, chứng cứ liên quan sẽ bảo đảm người bào chữa có điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các hoạt động bào chữa của mình, đồng thời có ý nghĩa trong việc nắm bắt các thông tin liên quan đến người mà mình bào chữa, kịp thời phát hiện những điểm còn mâu thuẫn, chưa rõ ràng để tìm hiểu, thu thập các lập luận của mình là có căn cứ, bảo đảm tình thuyết phục và khách quan.
Có thể thấy, pháp luật đã có nhiều quy định cụ thể, tạo điều kiện thuận lợi cho người bào chữa thực hiện chức năng của mình liên quan đến việc thu thập chứng cứ. Việc thu thập chứng cứ của người bào chữa sẽ được diễn ra khách quan, đúng pháp luật và chứng cứ thu thập được có giá trị trong quá trình giải quyết vụ án. Pháp luật đề cao vai trò của người bào chữa trong các vụ án, trong nhiều trường hợp các chứng cứ mà người bào chữa thu thập được có ý nghĩa quan trọng khi chứng minh được việc bị can, bị cáo không có tội, nhận thấy được tình trạng oan sai, vô tội nên sẽ bảo vệ được quyền con người, tránh những hành vi xâm hại xảy ra, và hạn chế được việc giải quyết vụ án hình sự không bảo đảm tính khách quan, công bằng, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Một số vấn đề đặt ra trong việc bảo đảm quyền thu thập chứng cứ của luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
Hiện nay, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã có nhiều quy định sửa đổi, bổ sung. Vì thế, đã phần nào khắc phục được những hạn chế, bất cập mà Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 để lại trong vấn đề “thu thập chứng cứ của người bào chữa”. Bên cạnh những quy định mới tiến bộ thì hiện vẫn còn một vài quy định bộc lộ những bất cập khó khăn trong quá trình thực tiễn áp dụng, có thể thấy việc thu thập chứng cứ độc lập của người bào chữa vẫn gặp phải rất nhiều khó khăn, có thể kể đến:
Một là, tại khoản 4, Điều 88, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định: “Khi tiếp nhận chứng cứ, tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến vụ án do những người quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này cung cấp, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải lập biên bản giao nhận và kiểm tra, đánh giá theo quy định của Bộ luật này”. Như vậy, sau khi thu thập được tài liệu, đồ vật… thì việc đánh giá xem đó có phải là chứng cứ hay không và việc quyết định có sử dụng hay không lại phụ thuộc hoàn toàn vào cơ quan tiến hành tố tụng. Một bên gỡ tội thực hiện thu thập các chứng cứ gỡ tội, khi thu thập được lại phải kịp thời giao nộp cho bên buộc tội (cơ quan tiến hành tố tụng như cơ quan điều tra).
Như vậy, điều này sẽ dẫn đến sự thiếu khách quan, trong nhiều trường hợp khi giao nộp những chứng cứ quan trọng sẽ bị vô hiệu hóa làm sai lệch dẫn đến giá trị chứng minh không còn; nên thực tiễn khi thu thập được chứng cứ quan trọng, quyết định việc có tội hay không có tội của bị can, bị cáo thì thông thường người bào chữa sẽ không tiến hành giao nộp ngay mà chỉ đợi đến khi phiên tòa được mở, thậm chí đến phần tranh luận mới xuất trình, gây khó khăn trong quá trình xem xét đánh giá chứng cứ của Tòa án. Hơn nữa, vấn đề này còn dễ dàng làm mất đi những giá trị chứng minh của chứng cứ, ảnh hưởng đến tính hiệu quả của quá trình bào vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được bào chữa.
Hai là, họat động thu thập chứng cứ bằng việc đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến việc bào chữa: Quy định này rất hình thức bởi thực tiễn, rất hiếm trường hợp người bào chữa đề nghị các cơ quan, tổ chức, cá nhân đặc biệt là cơ quan, tổ chức Nhà nước cung cấp được các tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến việc bào chữa. Khi nhận được sự bất hợp tác của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc cung cấp các tài liệu, đồ vật thì người bào chữa lại phải quay sang “đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng” thu thập. Như vậy, hoạt động thu thập chứng cứ của người bào chữa vẫn trở lại bằng việc đề nghị cơ quan tiến hành tố tụng tiến hành thu thập; việc xem xét có tiến hành theo đề nghị của người bào chữa hay không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của chủ thể tiến hành tố tụng trong việc đánh giá xem người bào chữa đã sử dụng mọi biện pháp cần thiết nhưng không thể thu thập chứng cứ được hay chưa.
Ba là, trong quá trình thu thập chứng cứ, người bào chữa còn gặp nhiều khó khăn khi việc thu thập chứng cứ là điều quan trọng, cần có áp dụng các biện pháp chuyên môn nghiệp vụ mới thu thập hiệu quả. Đối với người bào chữa thường vẫn tập trung và việc thu thập có lợi cho người được bào chữa của mình nhưng nhìn chung chứng cứ đó nhiều khi vẫn chưa được cơ quan chức năng chấp nhận. Người bào chữa thu thập chứng cứ thường không được thuận lợi nếu các đề nghị không được cơ quan có thẩm quyền chấp nhận, hỗ trợ nên gây ra những bất lợi cho quá trình thu thập tài liệu, chứng cứ của người bào chữa.
Bốn là, các quy định liên quan đến việc chấp nhận và tính hợp pháp của chứng cứ chặt chẽ sẽ bảo đảm tính khách quan nhưng cơ quan điều tra áp dụng mang tính dập khuôn nên vẫn chưa tạo điều kiện thuận lợi cho người bào chữa trong quá trình thu thập chứng cứ hoặc thu thập được nhưng không được chấp nhận do không phải nguồn của chứng cứ.
Như vậy, nhìn chung có thể thấy về quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 liên quan tới việc người bào chữa thu thập chứng cứ mặc dù đã có nhiều quy định mới được sửa đổi, bổ sung góp phần nâng cao vị trí của người bào chữa trong việc thực hiện chức năng bào chữa của mình. Tuy nhiên, thực tiễn hoạt động thu thập chứng cứ của Luật sư vẫn vô cùng khó khăn, chưa có cơ chế bảo đảm thực hiện. Trong thời gian tới, cần có các văn bản hướng dẫn chi tiết để các quy định này được thực hiện một cách nghiêm túc. Bảo đảm cho quá trình tác nghiệp của người bào chữa, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội, tránh oan sai, bảo đảm sự công tâm khách quan, thấu tình đạt lý, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[1] PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí – TS. Lê Lan Chi (Đồng chủ biên), Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, NXB. ĐHQGHN, tr. 185, năm 2019. |
Danh mục tài liệu tham khảo1. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003;2. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;3. Thông tư số 46/2019/TT-BCA ngày 10/10/2019 về quy định trách nhiệm của lực lượng công an nhân dân trong việc thực hiện các quy định của bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 liên quan đến bảo đảm quyền bào chữa của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang hoặc theo quyết định truy nã, người bị tạm giữ, bị can; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố;4. Nguyễn Ngọc Chí, Lê Lan Chi, giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2019;5. Cổng thông tin điện tử Bộ Công an, có nên quy định người bào chữa có quyền thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ trong tố tụng hình sự, truy cập 19h ngày 05/8/2021 http://bocongan.gov.vn/vanban/Pages/van-ban-moi.aspx?ItemID=227;6. Bộ Tư pháp, Phạm Thị Hồng Đào, Người bào chữa với việc thu thập chứng cứ theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, truy cập 20h ngày 07/8/2021. https://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=1970 |
NGUYỄN ANH DŨNG
Công ty Luật TNHH Thinksmart