TNHS của Pháp nhân Thương mại và những vấn đề cần quan tâm khi xử lý hình sự đối với Pháp nhân Thương mại theo quy định của BLHS 2015



TS. Trần Văn Dũng
Phó Vụ trưởng Vụ Pháp luật Hình sự – Hành chính, Bộ Tư pháp

Sự ra đời của Bộ luật hình sự (BLHS) năm 2015[1] đánh dấu bước phát triển mang tính đột phá trong chính sách và tư duy lập pháp hình sự của Nhà nước ta. Lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp hình sự, BLHS quy định trách nhiệm hình sự của tổ chức – pháp nhân thương mại. Điều này đã làm thay đổi tư duy có tính truyền thống về tội phạm và hình phạt, đáp ứng yêu cầu đấu tranh chống các hành vi phạm tội do pháp nhân thương mại thực hiện ở Việt nam trong những năm gần đây, tạo cơ sở pháp lý trong hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng chống tội phạm, nhất là các loại tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia. Điều này cũng đặt ra yêu cầu và nhiệm vụ tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện quy định này.


[1] Đã được sửa đổi, bổ sung bởi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS số 100/2015/QH13 được Quốc hội khóa XIV thông qua tại kỳ họp thứ 3, ngày 20/06/2017, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018.

I. SỰ CẦN THIẾT, BẢN CHẤT CỦA VIỆC QUY ĐỊNH TNHS CỦA PHÁP NHÂN

1. Sự cần thiết của việc quy định TNHS của pháp nhân ở Việt Nam

Theo quan niệm truyền thống, tội phạm là sự thống nhất giữa hai yếu tố khách quan và chủ quan. Về khách quan, đó là hành vi của con người có mức độ nguy hiểm đáng kể cho xã hội. Về chủ quan, hành vi đó phải gắn với thái độ chủ quan bên trong (yếu tố lỗi) của người phạm tội, nên cho đến thời điểm trước khi BLHS 2015 được thông qua, pháp luật hình sự Việt Nam chỉ coi chủ thể của tội phạm là cá nhân vì chỉ có con người mới đáp ứng được hai điều kiện nêu trên, và do vậy chỉ đặt vấn đề truy cứu trách nhiệm hình sự đối với cá nhân (con người tự nhiên) mà không quy định trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân (con người pháp lý).

Trước kia, trong nền kinh tế kế hoạch hóa, pháp nhân chủ yếu là các pháp nhân công (các doanh nghiệp nhà nước và sản xuất sản phẩm hàng hóa theo kế hoạch của nhà nước), nên việc không đặt vấn đề xem xét trách nhiệm pháp lý của pháp nhân cũng là điều có thể chấp nhận được. Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và xu thế hội nhập quốc tế, ở Việt Nam đã và đang tồn tại nhiều loại hình doanh nghiệp khác nhau, sản xuất ra các sản phẩm với các mục đích khác nhau. Nhiều pháp nhân là các tổ chức kinh tế vì lợi nhuận nên đã thực hiện ngày càng nhiều các hành vi vi phạm pháp luật, gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, xã hội và người dân nên ngoài các dạng trách nhiệm pháp lý khác trách nhiệm hành chính, trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong pháp luật dân sự, thì việc quy định trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân để xử lý những hành vi nguy hiểm do pháp nhân thực hiện gây thiệt hại cho lợi ích của người dân, cơ quan, tổ chức là cần thiết.

1.1. Thực trạng vi phạm pháp luật của pháp nhân ở Việt Nam trong những năm gần đây

Công cuộc đổi mới, đặc biệt là đổi mới về kinh tế đã tạo ra động lực để đất nước phát triển toàn diện, vững chắc qua đó đời sống của nhân dân không ngừng được nâng cao; an ninh, chính trị được giữ vững làm cơ sở để củng cố quốc phòng và tăng cường hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, cùng với vai trò thúc đẩy sự phát triển của kinh tế, ngày càng nhiều hành vi vi phạm đặc biệt nghiêm trọng của pháp nhân được thực hiện, gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho xã hội, đe dọa cuộc sống an lành của người dân. Qua tổng kết cho thấy, các hành vi vi phạm chủ yếu của pháp nhân là:

1.1.1. Vi phạm trong lĩnh vực bảo vệ môi trường

Theo số liệu từ lực lượng Cảnh sát Phòng chống tội phạm về môi trường cho thấy có sự gia tăng số lượng các vi phạm pháp luật về môi trường, cụ thể: Từ năm 2010 đến nay, lực lượng Cảnh sát phòng chống tội phạm về môi trường trên toàn quốc đã phát hiện, xử lý gần 25.000 vụ vi phạm pháp luật về môi trường, đã khởi tố trên 350 vụ án với gần 400 đối tượng, xử phạt vi phạm hành chính gần 200 tỷ đồng. Chỉ tính riêng thời gian 6 tháng đầu năm 2013, lực lượng Cảnh sát Phòng chống tội phạm về môi trường đã phát hiện 6.347 vụ vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường, tăng 55,95% so với cùng kỳ năm 2012. Các vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường diễn ra phổ biến nhất là trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp, xây dựng cơ bản và môi trường đô thị[2]. Để tăng lợi nhuận, giảm chi phí sản xuất, nhiều pháp nhân, doanh nghiệp đã cố ý trực tiếp xả thải ra môi trường không qua xử lý, gây thiệt hại nghiêm trọng cho môi trường sống, cho sản xuất của nông dân, ảnh hưởng nghiêm trọng lâu dài đến sức khỏe của nhân dân. Trong đó số vụ xả nước thải và khí thải chiếm trên 90%. Điển hình là vụ vi phạm xả nước thải trực tiếp không qua xử lý ra sông Thị Vải suốt 14 năm liền, gây ô nhiễm 2.686 hecta đất nuôi trồng thủy sản, chiếm 80 – 90% ô nhiễm cho sông, thiệt hại vật chất lên đến hàng ngàn tỷ đồng của Công ty Vedan Việt Nam; mới đây nhất là vụ việc Công ty cổ phần Nicotex Thanh Thái chôn xuống đất hàng chục tấn thuốc trừ sâu gây nhiễm độc đất và nguồn nước đe dọa trực tiếp đến sự an toàn về tính mạng và sức khỏe của người dân; vụ Công ty Cổ phần Nguyên phụ liệu Dệt may Bình An thuộc Tổng Công ty Việt Thắng và Công ty TNHH Sản xuất Cơ khí và Dịch vụ Đại Phúc xả thải chưa qua xử lý trực tiếp ra ngoài môi trường; Công ty Cổ phần giấy An Hòa xả 1.500 m3 nước thải chưa qua xử lý ra sông Lô; vụ Công ty TNHH NEW TOYO PULPPY tại tỉnh Bình Dương xả nước thải chưa được xử lý vào cống thoát nước mưa của Khu công nghiệp VISIP I, vụ việc 04 Công ty luyện, cán thép từ thép phế liệu đang gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng; vụ việc chôn lấp hàng trăm tấn chất thải nguy hại không đúng quy định của Công ty TNHH Nhà nước MTV xử lý và chế biến chất thải Phú Thọ; Công ty TNHH Khai thác, Chế biến xuất nhập khẩu Khoáng sản Việt Nam, tại Hải Dương có Nhà máy Xử lý chất thải ngành luyện kim gây ô nhiễm ảnh hưởng tới canh tác lúa và hoạt động của cư dân xung quanh; Công ty Cổ phần Giấy và Bao bì Phú Giang, Bắc Ninh xả nước thải chưa qua xử lý ra lưu vực sông Cầu[3].


[2] Bộ Tài nguyên & Môi trường, Báo cáo tổng kết 8 năm thi hành Luật Bảo vệ môi trường 2005 (2005 – 2013), tháng 7/2013.

[3] Bộ Tài nguyên & Môi trường, “Báo cáo tổng kết tình hình thực hiện nhiệm vụ công tác năm 2013 và kế hoạch công tác năm 2014 của ngành tài nguyên và môi trường, tháng 12/2013”.

1.1.2. Vi phạm trong lĩnh vực thuế

Trong những năm qua, hành vi trốn thuế bằng nhiều hình thức khác nhau của các pháp nhân cũng xảy ra rất phổ biến, làm giảm thu ngân sách cho Nhà nước hàng chục ngàn tỷ đồng. Theo kết quả thanh tra, kiểm tra của ngành Thuế tại 2.110 doanh nghiệp đã truy thu, truy hoàn, phạt hơn 988 tỉ đồng, giảm khấu trừ 136,95 tỉ đồng. Đặc biệt thanh tra thuế đã buộc doanh nghiệp phải giảm lỗ lên tới hơn 4.192 tỉ đồng. Cũng theo đánh giá của các cơ quan thanh tra thuế, số tiền truy thu chủ yếu tập trung ở khu vực doanh nghiệp FDI (chiếm 40% tổng số thu), tỷ lệ số thu bình quân trên một doanh nghiệp  là 1,73 tỉ đồng. Đáng lưu ý là tại một số địa phương, tỷ lệ vi phạm lên đến 100% như Cục thuế Bắc Giang (thanh tra 16 doanh nghiệp thì cả 16 đều vi phạm). Tỷ lệ này diễn ra tương tự tại Hòa Bình (16/16), Gia Lai (15/15)…Tại một số tỉnh, thành phố khác dù mức độ vi phạm không đến 100% nhưng tỷ lệ này cũng rất lớn như Hà Nội (thanh tra 332 doanh nghiệp thì phát hiện có 326 đơn vị vi phạm, số tiền giảm lỗ hơn 1.500 tỉ đồng, truy thu, phạt, truy hoàn gần 498 tỉ đồng); hay thành phố Hồ Chí Minh khi các cơ quan chức năng tiến hành thanh tra 193 doanh nghiệp FDI, có tới 164 doanh nghiệp vi phạm, giảm lỗ hơn 870 tỉ đồng và truy thu, phạt gần 173 tỉ đồng[4].


[4] Xem: Báo cáo của Tổng Cục thuế về tình hình nợ động thuế năm 2013 – 2014.

1.1.3. Vi phạm trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại

Trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh thương mại, tình trạng pháp nhân là các doanh nghiệp kinh doanh trái phép, buôn lậu, gian lận thương mại… cũng xảy ra khá phổ biến, gây thiệt hại nghiêm trọng cho nền kinh tế, tác động xấu tới môi trường sản xuất kinh doanh. Phương thức thủ đoạn chủ yếu của các doanh nghiệp này thường là quay vòng hóa đơn chứng từ; mua bán hóa đơn để hợp thức hóa hàng nhập lậu, gian lận trong việc kê khai giá trên hóa đơn bán hàng để giảm thuế giá trị gia tăng. Theo số liệu thống kê của Chi cục Quản lý thị trường Thành phố Hồ Chí Minh chỉ trong 8 tháng năm 2014, qua kiểm tra đã phát hiện 846 doanh nghiệp, hộ kinh doanh buôn bán, tàng trữ hàng hóa nhập lậu, hàng không rõ nguồn gốc, xuất xứ. Ví dụ: ngày 19/9 vừa qua, Cơ quan An ninh điều tra, Bộ Công an đã tiến hành bắt khẩn cấp và khởi tố vụ án hình sự, khởi tố hai bị can Nguyễn Minh Hùng (SN 1978), Chủ tịch HĐQT Công ty VN Pharma và Vũ Mạnh Cường (SN 1978), đại diện cho một Công ty dược nước ngoài có trụ sở tại TP. Hồ Chí Minh về hành vi dùng giấy tờ giả mạo nhập lô thuốc chống ung thư H-Capita trị giá 750.000 USD vào Việt Nam kiếm lời.

1.1.4. Vi phạm trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng

Vì lợi nhuận nên một số pháp nhân là ngân hàng đã nới lỏng điều kiện tín dụng, không tuân thủ nghiêm túc một số trình tự, thủ tục, quy định cho vay; không chuyển nhóm nợ theo quy chế; cho vay không có tài sản thế chấp hoặc tài sản thế chấp không đủ thủ tục pháp lý, thiếu sự kiểm tra năng lực tài chính của khách hàng, khâu thẩm định không đến nơi đến chốn, nâng giá trị tài sản hình thành trong tương lai từ nguồn vốn vay để được vay tiền cao hơn, bù cho vốn đối ứng, định giá tài sản thế chấp cao hơn so với thực tế… làm thất thoát một lượng đặc biệt lớn tài sản, làm tăng nợ xấu, thậm chí để một số cá nhân chiếm đoạt hàng ngàn tỷ đồng. Hậu quả này không chỉ gây thiệt hại lớn cho tài sản Nhà nước và công dân mà còn tác động tiêu cực tới các chính sách phát triển kinh tế, xã hội trong thời gian dài, thậm chí gây mất an ninh tiền tệ. Một ví dụ điển hình là Công ty cho thuê tài chính 2 thuộc Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (ALCII) đã có một loạt sai phạm về quản lý kinh tế như hạch toán sai các khoản thu, chi; không quản lý được tài sản cho thuê; không trích lập dự phòng đầu tư dài hạn theo quy định của pháp luật; chi phí dự phòng rủi ro thấp… dẫn đến tài chính của Công ty mất cân đối nghiêm trọng, lâm vào tình trạng phá sản; tổn thất lên tới 1.937 tỷ đồng tài sản của Nhà nước; số nợ xấu khó thu hồi rất lớn; số lỗ đã lớn gấp 10 lần vốn Điều lệ.

1.1.5. Vi phạm trong lĩnh vực bảo hiểm

Theo báo cáo của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, các hành vi vi phạm của các pháp nhân về bảo hiểm đang gia tăng với tính chất ngày càng phức tạp, hậu quả ngày càng nặng nề. Các hành vi vi phạm phổ biến của các pháp nhân là: vi phạm nghĩa vụ đóng bảo hiểm của người sử dụng lao động; dùng thủ đoạn gian dối để thụ hưởng trái phép các chế độ bảo hiểm và vi phạm trong quản lý và thực hiện bảo hiểm. Tính từ năm 2007 đến hết năm 2013, số tiền mà các doanh nghiệp nói chung nợ bảo hiểm xã hội (BHXH), bảo hiểm y tế (BHYT) tăng cao. Năm 2007 số nợ là 1.734 tỷ đồng, đến hết năm 2013 tổng số nợ BHXH, BHYT, bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) là trên 6,4 nghìn tỷ đồng (trong đó nợ BHXH bắt buộc là trên 4,7 nghìn tỷ đồng, chiếm 4,34% tổng số phải thu); tính đến 31/7/2014, tổng số nợ BHXH, BHYT, BHTN đã trên 11 nghìn tỷ đồng. Điều này làm quyền lợi của rất nhiều lao động bị ảnh hưởng nghiêm trọng dẫn đến người lao động khiếu nại, tố cáo, thậm chí có nơi còn đình công ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội. Tình trạng trốn đóng BHXH, BHYT xẩy ra ở hầu hết các địa phương với mức độ ngày càng nhiều, phổ biến nhất là ở các doanh nghiệp ngoài quốc doanh[5].


[5] Xem: “Báo cáo của Bảo hiểm xã hội Việt nam về thực trạng vi phạm pháp luật và đề xuất hình sự hóa hành vi trốn đóng bảo hiểm cho người lao động (tháng 10 năm 2014).

Như vậy, có thể khẳng định tình hình vi phạm pháp luật của các pháp nhân là các doanh nghiệp diễn ra khá phổ biến, thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống kinh tế – xã hội, có xu thế tăng và với tính chất và mức độ ngày càng nghiêm trọng, gây hậu quả không chỉ là những thiệt hại về tài sản, mà còn đe dọa trực tiếp sự an toàn về tính mạng, sức khỏe và sự phát triển lành mạnh của giống nòi, đe dọa nghiêm trọng môi trường sống an lành của người dân. Trong tình hình đó, các cơ quan chức năng đã tích cực điều tra, phát hiện và áp dụng biện pháp xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm này, tuy nhiên, số lượng các hành vi vi phạm vẫn không hề giảm mà ngược lại có xu hướng tiếp tục gia tăng. Vì vậy, hơn lúc nào hết, Nhà nước cần có những biện pháp cứng rắn hơn để ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng vi phạm của loại pháp nhân này, đảm bảo sự phát triển lành mạnh, an toàn, bền vững của xã hội và để thực hiện một trong những quyền hiến định của người dân đó là quyền được sống trong một môi trường trong lành và được đảm bảo an sinh xã hội.

1.2. Quy định của pháp luật hiện hành về xử lý hành vi vi phạm của pháp nhân và một số bất cập hạn chế

Theo quy định của pháp luật hiện hành, khi pháp nhân là các doanh nghiệp có hành vi phạm thì chỉ có thể áp dụng biện pháp xử phạt hành chính hoặc buộc pháp nhân phải bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm gây ra theo quy định của pháp luật dân sự.

1.2.1. Việc xử lý pháp nhân vi phạm theo Luật xử lý vi phạm hành chính

– Theo quy định của điểm b khoản 1 Điều 5 Luật xử lý vi phạm hành chính thì “Tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính về mọi vi phạm hành chính do mình gây ra”. Đồng thời, theo giải thích tại điểm 1 Điều 2 của Luật này thì “Vi phạm hành chính là hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi phạm quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính”.

Về hình thức xử phạt: Theo khoản 1 Điều 21 Luật xử lý vi phạm hành chính, tổ chức, pháp nhân vi phạm hành chính có thể bị áp dụng một trong các hình thức là cảnh cáo; phạt tiền; tước quyền sử dụng giấy phép, đình chỉ hoạt động có thời hạn; tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính. Trong đó cảnh cáo, phạt tiền là biện pháp phạt chính; tước quyền sử dụng giấy phép, đình chỉ hoạt động có thời hạn; tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính có thể được áp dụng là biện pháp phạt chính hoặc là biện pháp xử phạt bổ sung. Ngoài việc bị áp dụng hình thức xử phạt như đã nêu ở trên, pháp nhân vi phạm còn có thể áp dụng một hay nhiều biện pháp khắc phục hậu quả như buộc khôi phục tình trạng ban đầu; buộc tháo dỡ công trình, buộc áp dụng biện pháp khắc phục ô nhiễm môi trường, lây lan dịch bệnh; buộc đưa ra khỏi lãnh thổ hoặc tái xuất hàng hóa, vật phẩm, phương tiện; buộc tiêu hủy hàng hóa, vật phẩm; buộc cải chính thông tin; buộc thu hồi sản phẩm; buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp … (quy định tại khoản 1 Điều 28 Luật xử lý vi phạm hành chính).

Về mức phạt tiền, cũng theo quy định của Luật xử lý vi phạm hành chính, mức phạt tiền đối với pháp nhân bằng 02 lần mức phạt đối với cá nhân. Mức phạt tối đa được quy định ứng với từng lĩnh vực, ví dụ: trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội, tối đa là 150 triệu đồng; lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm là 300 triệu đồng; lĩnh vực thương mại là 200 triệu; lĩnh vực môi trường, quản lý các vùng biển hải đảo, quản lý hạt nhân là 2 tỷ đồng (Điều 23 Luật xử lý vi phạm hành chính).

– Qua nghiên cứu cho thấy, các biện pháp xử lý vi phạm hành chính đối với pháp nhân có hành vi vi phạm pháp luật đã và đang bộc lộ những bất cập, hạn chế. Cụ thể:

Thứ nhất, Luật xử lý vi phạm hành chính tuy đã được điều chỉnh theo hướng nâng mức phạt cao hơn so với trước kia, nhưng cũng không đủ sức răn đe doanh nghiệp, tổ chức vi phạm. Mức phạt tối đa theo điểm k Khoản 1, Khoản 2 Điều 23 Luật xử lý vi phạm hành chính áp dụng đối với tổ chức, cá nhân tối đa không quá 2 tỷ đồng, trong khi đó hậu quả do hành vi vi phạm của pháp nhân gây ra trong nhiều trường hợp là đặc biệt nghiêm trọng. Với mức phạt như hiện hành thì đối với pháp nhân là các doanh nghiệp lớn hoàn toàn không đủ sức răn đe. Nhiều trường hợp pháp nhân sẽ chấp nhận nộp phạt để tiếp tục vi phạm. Ví dụ: thiệt hại do sự cố tràn dầu của tàu Neptune Aries (Singapore) ngày 03-10-1994 tại cảng Cát Lái gây thiệt hại ước tính 20 triệu USD, nhưng Tòa án chỉ buộc công ty sở hữu tàu bồi thường hơn 3 tỷ đồng (khoảng 2 triệu USD) và xử phạt hành chính không quá 70 triệu đồng. Qua thảo luận, có ý kiến cho rằng nên chăng chỉ cần nâng mức phạt trong Luật xử lý vi phạm hành chính để xử lý pháp nhân mà không cần phải quy định trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân. tuy nhiên, về bản chất hành vi vi phạm hành chính là hành vi có mức độ nguy hiểm thấp hơn so với hành vi bị coi là tội phạm, do đó, việc nâng mức xử phạt hành chính quá cao sẽ tạo ra sự không thống nhất trong hệ thống pháp luật.

Thứ hai, trình tự, thủ tục áp dụng các biện pháp xử lý vi phạm hành chính hiện nay có ưu điểm là nhanh và kịp thời nhằm lập lại trật tự quản lý hành chính nhưng có mặt hạn chế rất lớn là thiếu tính chuyên nghiệp, minh bạch trong việc xác minh hành vi vi phạm, mức độ thiệt hại do hành vi vi phạm của pháp nhân gây ra và mức xử phạt áp dụng đối với pháp nhân. Rõ ràng, vì xử lý theo thủ tục hành chính, nên thiếu sự vào cuộc của một cơ quan điều tra chuyên trách với một trình tự, thủ tục tố tụng tư pháp chặt chẽ, khách quan. Mặt khác, cũng vì xử lý theo thủ tục hành chính, nên pháp nhân với tư cách là đối tượng bị xử phạt ít có điều kiện hơn trong việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình như: không nhận được sự trợ giúp của người bào chữa, không được quyền xét xử theo hai cấp với một cơ quan tài phán độc lập, khách quan và công bằng.

Thứ ba, trong khi mức phạt tiền còn nhiều bất cập như phân tích ở trên thì việc áp dụng các hình thức xử phạt như tước giấy phép hoạt động có thời hạn hoặc đình chỉ hoạt động đối với pháp nhân trong nhiều trường hợp sẽ gây ra hậu quả phản tác dụng như: làm mất việc làm của công nhân hoặc gây đình đốn sản xuất. Đây là điều được khắc phục khi xử lý pháp nhân với tư cách là chủ thể của tội phạm.

Thứ tư, quan niệm truyền thống lập pháp của Việt Nam, hành vi vi phạm hành chính có mức độ nguy hiểm thấp hơn hành vi phạm tội. Trong khi Luật xử lý vi phạm hành chính coi pháp nhân là đối tượng bị xử phạt vi phạm hành chính thì BLHS hiện hành lại không quy định pháp nhân là chủ thể của tội phạm, nên pháp nhân thực hiện hành vi dù nguy hiểm đến đâu cũng chỉ bị xử phạt hành chính mà không bị coi là tội phạm. Đây là điều bất hợp lý cần khắc phục.

1.2.2. Việc xử lý pháp nhân có hành vi gây thiệt hại theo pháp luật dân sự

Khi pháp nhân có hành vi vi phạm, việc buộc pháp nhân khắc phục hậu quả, bồi thường thiệt hại được thực hiện theo quy định của pháp luật về dân sự. Điều đó có nghĩa là để được bồi thường, người bị thiệt hại phải khởi kiện vụ án dân sự ra trước Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bồi thường thiệt hại mà pháp nhân gây ra cho mình theo quy định về bồi thường ngoài hợp đồng. Đồng thời phải tự chứng minh thiệt hại do hành vi vi phạm của pháp nhân gây ra.

Thực tiễn xử lý các vụ việc vi phạm pháp luật của pháp nhân cho thấy một số bất cập, hạn chế:

Thứ nhất, một trong những nguyên tắc áp dụng biện pháp buộc bồi thường thiệt hại theo chế độ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng đặt ra yêu cầu đối với người bị thiệt hại phải tự chứng minh mức độ thiệt hại. Trong khi đó, để chứng minh được mức độ thiệt hại, nhất là thiệt hại do hành vi gây ô nhiễm môi trường (như ô nhiễm đất, không khí, nguồn nước…) không phải là chuyện đơn giản và không phải lúc nào thiệt hại đó cũng biểu hiện ngay lập tức. Do vậy, nếu chỉ quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong luật dân sự của pháp nhân vi phạm thì người dân khó có điều kiện để thực hiện quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại của mình.

Thứ hai, theo quy định hiện hành, đối với các pháp nhân là doanh nghiệp có hành vi vi phạm có thể bị xử lý thông qua khởi kiện vụ án dân sự, nhưng trên thực tế, do hành vi xảy ra trong một khoảng thời gian dài, với nhiều đối tượng bị hại khác nhau nên việc xác định ai là người khởi kiện gặp nhiều khó khăn. Mặt khác, theo quy định hiện hành thì việc khởi kiện đòi bồi thường thiệt hại luôn đi kèm theo một mức án phí dân sự rất lớn. Điều này đã gây ra nhiều cản trở cho người dân trong việc đòi bồi thường thiệt hại. Như vậy, trước hành vi vi phạm của pháp nhân, doanh nghiệp, người dân vừa là người bị thiệt hại lại vừa phải tự chứng minh thiệt hại trước khi đòi bồi thường. Đây là điều bất hợp lý và là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng xử lý không dứt điểm trong vụ kiện người dân của ba tỉnh đòi bồi thường thiệt hại trong Vụ Vedan. Trong khi đó, nếu coi pháp nhân là chủ thể của tội phạm thì việc chứng minh tội phạm và xác định mức độ thiệt hại do hành vi vi phạm của pháp nhân gây ra thuộc trách nhiệm của cơ quan Nhà nước, với một quy trình tố tụng chặt chẽ, nhanh chóng, khách quan và công bằng.

Do vậy, trong mối quan hệ về trách nhiệm chứng minh thiệt hại do pháp nhân gây ra, việc quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân trong BLHS thực chất là việc chuyển trách nhiệm từ trách nhiệm chứng minh từ cá nhân người bị thiệt hại sang trách nhiệm chứng minh của Nhà nước – chủ thể thay mặt người dân trong việc buộc pháp nhân phải bồi thường thiệt hại. Trở lại ví dụ: Vụ xả thải của công ty Vedan, nếu chúng ta đã quy định pháp nhân là chủ thể của tội phạm thì chắc chắn không xảy ra tình trạng không xác định được ai trong số hàng chục ngàn người dân là người khởi kiện; và người dân hay cơ quan nào đứng ra xác định mức độ thiệt hại …

1.2.3. Bất cập về chính sách xử lý hình sự

Cho đến thời điểm trước khi BLHS năm 2015 có hiệu lực, chính sách hình sự của nhà nước ta chỉ xử lý về hình sự đối với chủ thể phạm tội là các cá nhân. Tuy nhiên, chính sách này đã bộc lộ nhiều điểm bất cập. Trên thực tế, hoạt động quản lý của các doanh nghiệp không chỉ được quyết định bởi cá nhân Giám đốc hoặc người điều hành doanh nghiệp, mà trong nhiều trường hợp các quyết định đưa ra (bao gồm cả những quyết định vi phạm) trên cơ sở bàn bạc, biểu quyết tập thể. Về thực chất, đây là trường hợp lãnh đạo tập thể, quyết định tập thể và hưởng lợi tập thể. Trong những trường hợp này, vai trò của giám đốc điều hành chỉ là người chấp hành quyết định của tập thể. Vì vậy, nếu vẫn chỉ buộc một số cá nhân chịu trách nhiệm hình sự trong khi việc biểu quyết theo Hội đồng và cả tập thể được hưởng lợi từ những quyết định tập thể ấy là thiếu công bằng. Điều này càng thấy rõ đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoặc các loại hình công ty cổ phần, khi mà phần lớn chủ sở hữu thực sự của doanh nghiệp, pháp nhân này lại không phải là người trực tiếp điều hành doanh nghiệp. Do đó, nếu cứ tiếp tục duy trì chính sách hình sự chỉ xử lý cá nhân người phạm tội như hiện nay, thì chúng ta mới chỉ xử lý đến cá nhân người trực tiếp điều hành doanh nghiệp mà chưa  xử lý những ông chủ thật sự – người được hưởng lợi chính từ những hành vi vi phạm của doanh nghiệp.

1.3. Xu thế hội nhập quốc tế đặt ra yêu cầu cần thay đổi chính sách xử lý hình sự đối với pháp nhân ở Việt Nam

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế về pháp luậttư pháp diễn ra mạnh mẽ, Việt Nam đã trở thành thành viên của nhiều công ước quốc tế về phòng, chống tội phạm như: Công ước chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia và các Nghị định thư đi kèm, Công ước chống tham nhũng, Công ước về phòng chống rửa tiền…Mặc dù khi tham gia các Công ước này, đặc biệt là Công ước chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, Việt Nam tuyên bố không bị ràng buộc về quy định TNHS của pháp nhân, nhưng theo quy định tại Điều 10 của Công ước này, các quốc gia thành viên phải ban hành những biện pháp cần thiết phù hợp với những nguyên tắc pháp lý của nước mình, để xác định trách nhiệm pháp lý của pháp nhân trong việc thực hiện những hành vi phạm tội như: tham gia nhóm tội phạm có tổ chức (Điều 5); rửa tiền (Điều 6), tham nhũng (Điều 8), cản trở công lý (Điều 23). Đồng thời tuỳ theo những nguyên tắc pháp lý của mình, việc xử lý pháp nhân vi phạm có thể là trách nhiệm hình sự, dân sự hay trách nhiệm hành chính.

Rà soát những quy định này trong hệ thống pháp luật Việt Nam cho thấy, hành vi tham gia nhóm tội phạm có tổ chức và hành vi tham nhũng luôn được coi là tội phạm mà không coi là hành vi vi phạm hành chính nên nếu không quy định TNHS của pháp nhân để xử lý các hành vi nêu trên thì vô hình chung đã bỏ sót việc xử lý hành vi vi phạm của pháp nhân đối với hành vi tham nhũnghành vi tham gia nhóm tội phạm có tổ chức như đã phân tích ở trên. Bên cạnh đó, theo một báo cáo mới đây của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam gửi Thủ tướng Chính phủ về những khuyến nghị của lực lượng đặc nhiệm tài chính về chống rửa tiền (FATF)[6] yêu cầu Việt Nam phải chỉ rõ thời hạn và những bằng chứng chứng tỏ sự cam kết của cơ quan có thẩm quyền Việt Nam trong việc xem xét hình sự hóa trách nhiệm hình sự của pháp nhân nếu không muốn bị đưa vào danh sách giám sát đặc biệt của APG[7].


[6] Lực lượng đặc nhiệm tài chính về chống rửa tiền (FATF) là tổ chức chuyên nghiên cứu, đưa ra những chuẩn mực quốc tế về chống rửa tiền và tài trợ khủng bố, được thành lập tại Hội nghị thượng đỉnh của nhóm G7, ở Paris, vào năm 1989. Hiện tại, FATF có 34 quốc gia thành viên, 2 quốc gia quan sát viên và 5 tổ chức khu vực là thành viên liên kết. 49 khuyến nghị về chống rửa tiền và tài trợ khủng bố do FATF ban hành, gồm 40 khuyến nghị về chống rửa tiền và 9 khuyến nghị đặc biệt về chống tài trợ khủng bố.

[7] Xem Mục 1.3, Tờ trình số 01/Ttr-NHNN.m ngày 07/01/2014 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam gửi Thủ Tướng chính phủ. Trong trường hợp Việt Nam bị đưa lại vào danh sách giám sát đặc biệt (hiện này danh sách này chỉ có hai nước là Iran và Bắc Triều tiên) thì ảnh hưởng rất lớn đến chủ trương thu hút vốn đầu tư nước ngoài để phát triển đất nước cũng như hoạt động giao thương của nước ta với các quốc gia khác trên thế giới.

Như vậy, thực tiễn thời gian qua cho thấy, tình hình vi phạm của các tổ chức kinh tế (pháp nhân) diễn ra khá phổ biến và nhiều trường hợp gây hậu quả cực kỳ nghiêm trọng, nhất là trong lĩnh vực kinh tế, môi trường. Trong khi đó, việc xử lý các hành vi vi phạm nêu trên của các pháp nhân là các doanh nghiệp bằng chế tài về hành chính hoặc dân sự tỏ ra không hiệu quả, tính răn đe phòng ngừa của các chế tài xử lý này không cao, hậu quả pháp lý của việc xử lý này đối với doanh nghiệp vi phạm chưa có sức nặng đủ để phòng ngừa tái phạm nên chưa đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng, chống hành vi vi phạm của các công ty, doanh nghiệp. Vì vậy, cần phải có biện pháp xử lý mạnh mẽ hơn, nghiêm khắc hơn để bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật và truy xét đến cùng trách nhiệm của công ty, doanh nghiệp đối với hành vi vi phạm nguy hiểm mang tính chất tội phạm mà một trong những biện pháp đó chính là xử lý hình sự đối với các công ty, doanh nghiệp vi phạm nên cần thiết bổ sung vào BLHS quy định về trách nhiệm hình sự của pháp nhân. Việc bổ sung TNHS của pháp nhân cũng thể hiện cam kết của Việt Nam trong thực hiện các cam kết quốc tế trong các Công ước mà Việt Nam là thành viên. Đây cũng là xu hướng chung của các quốc gia trên thế giới[8], như: Trung quốc; Pháp; Thụy Sĩ; và 05 nước thuộc Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (gọi tắt là ASEAN) gồm: Singapore, Malaixia, Thái Lan, Philippines và Indonesia, đồng thời đáp ứng yêu cầu của 40 khuyến nghị về chống rửa tiền của Lực lượng đặc nhiệm tài chính về chống rửa tiền (FATF) và chủ động chuẩn bị đây đủ các cơ sở pháp lý cho quá trình hội nhập kinh tế giữa các nước ASEAN vào cuối năm 2015.


[8] Qua rà soát, hiện có 119/173 quốc gia thành viên UNCAC có quy định về trách nhiệm hình sự của pháp nhân; Trong hiệp hội các quốc gia ASEAN, hiện có 05 nước chính thức và 01 nước đang trong quá trình xem xét. Xem nguồn:http://www.unodc.org/unodc/en/corruption/index.html?ref=menuside [truy cập 09/1/2015]

2. Bản chất của TNHS của pháp nhân

Trong pháp luật hình sự hiện hành, không có định nghĩa lập pháp về khái niệm TNHS. Khái niệm này chỉ được các nhà hình sự học đề cập đến trong khoa học luật hình sự. Mặc dù các quan điểm cụ thể còn có khác nhau nhưng nhìn chung, đều thống nhất về bản chất của TNHS là sự lên án của Nhà nước đối với hành vi phạm tội. Bằng cách tuyên bố hành vi nào đó (có mức độ nguy hiểm nhất định) là tội phạm và áp dụng các biện pháp cưỡng chế hình sự đối với chủ thể đã thực hiện hành vi. Như vậy, TNHS là biện pháp tác động của Nhà nước lên chủ thể của tội phạm. Với tư cách là chủ thể của quan hệ pháp luật hình sự, Nhà nước có quyền thông qua các cơ quan bảo vệ pháp luật truy cứu TNHS và áp dụng các biện pháp cưỡng chế hình sự đối với chủ thể của tội phạm.

Trên cơ sở các lập luận khoa học trên, về bản chất TNHS của pháp nhân cũng chính là sự lên án của Nhà nước đối với hành vi phạm tội mà pháp nhân đã thực hiện, phản ánh mối quan hệ giữa nhà nước và pháp nhân đã thực hiện tội phạm thông qua việc Nhà nước có quyền tuyên bố hành vi nguy hiểm mà pháp nhân thực hiện là tội phạm và có quyền áp dụng các biện pháp hình sự (gồm hình phạt và các biện pháp tư pháp) đối với pháp nhân đó nhằm bảo vệ trật tự pháp luật và giáo dục mọi người ý thức tuân thủ pháp luật. Trách nhiệm hình sự là hậu quả pháp lý bất lợi mà pháp nhân phải gánh chịu, được thực hiện bằng hình phạt, biện pháp tư pháp hình sự và án tích do Tòa án nhân danh Nhà nước quyết định áp dụng đối với pháp nhân vì pháp nhân đó đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong những trường hợp được quy định trong BLHS.

Cũng cần khẳng định rằng, nói đến TNHS của pháp nhân là nói đến pháp nhân đó với tư cách là một chủ thể độc lập, phải chịu trách nhiệm hình sự trước nhà nước về hành vi vi phạm do mình gây ra. Trách nhiệm hình sự của pháp nhân không đồng nghĩa với khái niệm trách nhiệm hình sự tập thể[9].


[9] Về vấn đề này, hiện nay trong giới khoa học luật hình sự tồn tại quan điểm cho rằng: pháp nhân không thể trở thành chủ thể của tội phạm vì không thể thực hiện được tội phạm mà chỉ là chủ thể của TNHS (xem Nguyễn Ngọc Hòa, Trách nhiệm hình sự của chủ thể là tổ chức và vấn đề sửa đổi Bộ luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Luật học, số 12, năm 2014, tr9-16.

II. QUY ĐỊNH TNHS CỦA PHÁP NHÂN TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015[10]


[10] Đã được sửa đổi, bổ sung bởi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS số 100/2015/QH13 được Quốc hội khóa XIV thông qua tại kỳ họp thứ 3, ngày 20/06/2017, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018

1. Về cơ sở của TNHS của pháp nhân

a) Thuyết đồng nhất hóa trách nhiệm – cơ sở quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân

Tham khảo kinh nghiệm của các nước quy định TNHS của pháp nhân cho thấy, thuyết đồng nhất hóa trách nhiệm được sử dụng ở tất cả các nước quy định TNHS của pháp nhân. Bằng cách đồng nhất hành vi, lỗi của cá nhân người lãnh đạo, chỉ huy, người đại diện với hành vi, lỗi của pháp nhân, học thuyết này lý giải đơn giản và hợp lý cơ sở TNHS của pháp nhân. Nói cách khác, hành vi, lỗi của người lãnh đạo, chỉ huy, người đại diện của pháp nhân cũng chính là hành vi, lỗi của pháp nhân. Như vậy, thuyết đồng nhất hóa trách nhiệm được các nhà lập pháp Việt Nam quy định là cơ sở quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân. Để truy cứu TNHS của một pháp nhân, trước hết phải căn cứ chính vào hành vi của người lãnh đạo, chỉ huy, người đại diện của pháp nhân.

Từ đặc điểm này khi xác định TNHS của pháp nhân (thương mại), nên một số nhà khoa học luật hình sự cho rằng, pháp nhân không phải là chủ thể của tội phạm mà chỉ là chủ thể của TNHS. Chủ thể của tội phạm chỉ là cá nhân con người[11]. Tuy nhiên, quan điểm của cơ quan chủ trì soạn thảo được thể hiện trong Đề án quy định TNHS của pháp nhân trình các cấp có thẩm quyền thông qua, thì pháp nhân là chủ thể của tội phạm và chỉ khi là chủ thể của tội phạm thì Nhà nước mới có quyền lên án và áp dụng TNHS đối với pháp nhân khi có đủ điều kiện của chủ thể của tội phạm theo khoản 1 Điều 75 BLHS.


[11] Xem, GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa, Chủ biên, Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017, NXB Tư pháp năm 2017. Trang 13-19

b) Thuyết đồng nhất hóa trách nhiệm – cơ sở về kỹ thuật lập pháp khi quy định TNHS của pháp nhân

Từ góc độ lập pháp hình sự, các quy định về tội phạm, về cơ sở TNHS, về lỗi, về các giai đoạn thực hiện tội phạm … trong BLHS hiện hành không cần phải có những quy định bổ sung, mà cơ bản và chủ yếu dựa trên các quy định áp dụng cho cá nhân. BLHS chỉ cần bổ sung những quy định có tính đặc thù chỉ áp dụng riêng cho pháp nhân như: cơ sở trách nhiệm hình sự, nguyên tắc áp dụng các quy định của BLHS, căn cứ truy cứu TNHS đối với pháp nhân, các hình phạt, loại pháp nhân phải chịu trách nhiệm hình sự, các tội phạm mà pháp nhân phải chịu trách nhiệm hình sự … Thống nhất với cách tiếp cận này, nhiều khái niệm căn bản của luật hình sự như: khái niệm về tội phạm, về phân loại tội phạm, về lỗi,..vẫn được tiếp tục áp dụng mà không cần thiết phải bổ sung bất cứ nội dung gì.

c) Thuyết đồng nhất hóa trách nhiệm – cơ sở về kỹ thuật áp dụng pháp luật hình sự khi xử lý pháp nhân

Từ góc độ áp dụng pháp luật hình sự, để truy cứu TNHS pháp nhân, chỉ cần chứng minh hành vi phạm tội, lỗi của người lãnh đạo, chỉ huy, người đại diện pháp nhân và các điều kiện khác của TNHS (như vai trò lãnh đạo, chỉ huy, đại diện của cá nhân trong pháp nhân, việc nhân danh, thay mặt pháp nhân, vì lợi ích của pháp nhân…) là đủ. Do vậy, việc áp dụng nguyên tắc trách nhiệm kép trong giải quyết vấn đề TNHS của pháp nhân là hoàn toàn hợp lý. Điều này có nghĩa là, về nguyên tắc nếu người lãnh đạo, người đại diện của pháp nhân đã thực hiện một tội phạm vì lợi ích hoặc trong khuôn khổ hoạt động của pháp nhân và theo sự chỉ đạo hoặc đồng tình của pháp nhân thì cả pháp nhân và người lãnh đạo, người đại diện đó phải chịu TNHS về cùng tội phạm đó.

2. Loại pháp nhân phải chịu TNHS (Điều 2)

Mỗi quốc gia quy định loại pháp nhân phải chịu TNHS là khác nhau. Ở một số nước có nền kinh tế thị trường phát triển thì phạm vi pháp nhân phải chịu TNHS tương đối rộng. Ví dụ như: Pháp luật hình sự Cộng hòa Pháp quy định tổ chức, pháp nhân phải chịu trách nhiệm hình sự bao gồm các tổ chức, pháp nhân theo luật t­ư và cả các tổ chức, pháp nhân theo luật công[12]. Luật hình sự Anh quy định chủ thể phải chịu trách nhiệm hình sự cũng rất rộng bao gồm các công ty như công ty cổ phần, công ty trách nhiệm vô hạn, … hoặc công ty một thành viên có tư cách pháp nhân hoặc các nhóm, các hội, hiệp hội,…. không có tư cách pháp nhân[13].


[12] Điều 121-2 Bộ luật hình sự quy định các hiệp hội, các quỹ tài trợ, các đảng phái, công đoàn, nghiệp đoàn, các công ty, nhà máy, xí nghiệp, trường học, bệnh viện, … đều phải chịu trách nhiệm hình sự vì họ sở hữu tài sản mà có thể được sử dụng vào mục đích bất hợp pháp hoặc họ có thể sử dụng thông tin từ các thành viên của họ vì mục đích bất hợp pháp. Tuy nhiên, Điều này cũng loại trừ các ngoại lệ không phải chịu trách nhiệm hình sự bao gồm nhà nước bởi vì nhà nước bảo vệ lợi ích chung, có chủ quyền và độc quyền trong luật hình sự, nhà nước không thể tự trừng trị mình; các vùng lãnh thổ và các tổ chức như công xã, … Điều 121-2 cũng yêu cầu chủ thể của trách nhiệm hình sự phải có tư cách pháp nhân. Khác với quy định của nhiều nước khác, tổ chức là chủ thể của trách nhiệm hình sự phải có tư cách pháp nhân (Điều 12 – 2). Nếu một tổ chức không được pháp luật công nhận có tư cách pháp nhân sẽ không phải là chủ thể của pháp luật hình sự.

[13] Mục 30 Bộ luật hình sự quy định về trách nhiệm hình sự của pháp nhân đưa ra một số nguyên tắc rằng các pháp nhân phải chịu trách nhiệm hình sự về những hành vi phạm tội được thực hiện bởi những người lãnh đạo, quản lý của pháp nhân, trong phạm vi các hoạt động của pháp nhân và vì lợi ích của pháp nhân.

Điều 207 Bộ luật hình sự mẫu năm 1962 của Mỹ, thì không chỉ có các tập đoàn tức là các pháp nhân, mà cả các hiệp hội không có tính chất tập đoàn tức là các tổ chức được thành lập bởi Chính phủ hoặc được thành lập với tính chất là một cơ quan của Chính phủ để thực hiện chương trình của Chính phủ, đều có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Luật hình sự Trung Quốc quy định phạm vi chủ thể là pháp nhân tương đối hẹp hơn so với các quốc gia nêu trên.Theo đó, Điều 30 BLHS Trung Quốc quy định: “công ty, xí nghiệp, đơn vị sự nghiệp, cơ quan, đoàn thể thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, pháp luật coi là đơn vị phạm tội và phải chịu trách nhiệm hình sự”. Theo đó: (i) Công ty là tổ chức kinh tế tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh vì mục đích lợi nhuận, bao gồm công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần trách nhiệm hữu hạn; (ii) Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế xã hội có tính lợi nhuận, hoạt động chủ yếu là sản xuất, lưu thông, nghiên cứu ứng dụng khoa học kỹ thuật nhằm mục đích lợi nhuận, làm giàu cho xã hội; (iii) Đơn vị sự nghiệp bao gồm đơn vị sự nghiệp nhà nước và đơn vị sự nghiệp tập thể là các tổ chức hoạt động công ích xã hội.

Mặc dù loại pháp nhân phải chịu TNHS ở mỗi nước là khác nhau nhưng pháp luật hình sự của tất cả các nước đều thống nhất ở một điểm chung là không coi Nhà nước là chủ thể của tội phạm.

Ở Việt Nam, về nguyên tắc, để đảm bảo tính công bằng trong chính sách xử lý hình sự, việc quy định trách nhiệm hình sự đối với mọi loại pháp nhân có hành vi phạm tội, dù đó là tổ chức có tư cách pháp nhân hay không có tư cách pháp nhân (doanh nghiệp tư nhân), dù là tổ chức theo luật tư hay theo luật công là cần thiết. Tuy nhiên, cũng như kinh nghiệm của một số nước trên thế giới, trách nhiệm hình sự của pháp nhân là vấn đề mới, nên trước mắt cần có quy định phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội và tổ chức Nhà nước ta.

Xuất phát từ đặc điểm tổ chức bộ máy Nhà nước và các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của Việt Nam hiện nay, phạm vi pháp nhân phải chịu TNHS được xác định:

– Không coi các cơ quan Nhà nước, các tổ chức chính trị, chính trị xã hội, các đơn vị thuộc lực lượng vũ trang, các tổ chức quần chúng, các hội nghề nghiệp là chủ thể của tội phạm.

Đây là các tổ chức, pháp nhân đều có sử dụng ngân sách nhà nước cho hoạt động của mình. Trong khi đó, hình phạt chính đối với pháp nhân là phạt tiền, giải thể, đình chỉ hoạt động…; các hình phạt bổ sung như tịch thu tài sản, cấm hoặc hạn chế hoạt động… lại không thể áp dụng đối với các chủ thể này. Vì thế không coi Nhà nước, các tổ chức chính trị, chính trị – xã hội, các tổ chức quần chúng, các hội nghề nghiệp… là chủ thể của TNHS.

Mặt khác, các tổ chức này chủ yếu hoạt động trong phạm vi tổ chức của đoàn thể, ít tham gia hoạt động kinh tế, nên ít có khả năng thực hiện các dạng hành vi phạm tội trong lĩnh vực quản lý kinh tế, môi trường.

– Chỉ coi chủ thể của tội phạm là các pháp nhân thương mại

Theo quy định của Bộ luật dân sự[14], để trở thành pháp nhân phải có bốn điều kiện: (i) Được thành lập hợp pháp; (ii) Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ; (iii) Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó và (iv) Nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập. Cần lưu ý, theo quy định tại khoản 1 Điều 183 Luật doanh nghiệp 2014 quy định: “Doanh nghiệp tư nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp”. Như vậy, doanh nghiệp tư nhân không được coi là doanh nghiệp có tư cách pháp nhân; người đứng đầu doanh nghiệp tư nhân phải chịu trách nhiệm vô hạn bằng toàn bộ tài sản của mình về hoạt động của doanh nghiệp. Do đó, doanh nghiệp tư nhân không phải là pháp nhân[15].


[14] Theo Điều 75 BLDS: ” 1. Pháp nhân thương mại là pháp nhân có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận và lợi nhuận được chia cho các thành viên.

2. Pháp nhân thương mại bao gồm doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế khác.”

[15] Với quy định này thì việc không coi doanh nghiệp tư nhân là chủ thể của tội phạm tỏ ra không phù hợp với thực tiễn vì doanh nghiệp tư nhân hoàn toàn có thể thực hiện các hành vi phạm tội được quy định tại Điều 76 BLHS.

Việc BLHS năm 2015 chỉ quy định TNHS của pháp nhân thương mại phản ánh sự thận trọng của các nhà lập pháp Việt Nam khi lần đầu tiên quy định TNHS của pháp nhân; phản ảnh thực trạng vi phạm của pháp nhân trong giai đoạn này, chủ yếu là các hành vi vi phạm trong lĩnh vực kinh tế, môi trường, rửa tiền và tài trợ khủng bố.

Nghiên cứu kinh nghiệm của nhiều quốc gia đã quy định TNHS của pháp nhân cho thấy, việc mở rộng loại pháp nhân phải chịu TNHS, không chỉ là các pháp nhân thương mại mà còn cả các pháp nhân khác là xu hướng tất yếu của pháp luật hình sự Việt Nam.

3. Về phân loại tội phạm đối với pháp nhân (Khoản 2 Điều 9)

Đây là quy định mới được bổ sung trong Luật số 12/2017/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS số 100/2015/QH13, trong quá trình xây dựng dự án Luật, một số chuyên gia đều cho rằng, xuất phát từ quy định phân loại tội phạm của cá nhân chủ yếu dựa vào mức phạt tù, trong khi đó, hình phạt chủ yếu đối với pháp nhân thương mại là hình phạt tiền, nên cần bổ sung quy định phân loại tội phạm đối với pháp nhân để đảm bảo áp dụng thống nhất. Một số ý kiến khác lại không đồng tình với việc bổ sung này[16].


[16] Quan điểm khác lại cho rằng, việc phân loại tội phạm đối với pháp nhân không chỉ căn cứ vào Điều 9 mà còn phải căn cứ vào các khung hình phạt cụ thể áp dụng đối với pháp nhân thương mại tại 33 điều luật nên không cần phải bổ sung qui định này.

Để đảm bảo cách hiểu thống nhất, Luật số 12/2017/QH14 đã bổ sung bằng cách dẫn chiếu điều luật để áp dụng. Cụ thể Khoản 2 Điều 9 được bổ sung như sau:

2. Tội phạm do pháp nhân thương mại thực hiện được phân loại căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội theo quy định tại khoản 1 Điều này và quy định tương ứng đối với các tội phạm được quy định tại Điều 76 của Bộ luật này.”

4. Nguyên tắc áp dụng quy định của BLHS đối với pháp nhân thương mại phạm tội (Điều 74)

Trên nguyên tắc việc truy cứu TNHS của pháp nhân dựa trên hành vi của người đại diện pháp nhân, do đó về cơ bản các quy định hiện hành trong BLHS để xử lý hành vi phạm tội của cá nhân được áp dụng để xử lý TNHS đối với cá nhân. Theo đó, Điều 74 BLHS quy định: “Pháp nhân thương mại phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo những quy định của Chương này; theo quy định khác của Phần thứ nhất của Bộ luật này không trái với quy định của Chương này”. Điều này có nghĩa là trong quá trình xử lý pháp nhân phạm tội, cơ quan tiến hành tố tụng ưu tiên áp dụng những quy định có tính chất đặc thù đối với pháp nhân tại Chương này, đồng thời áp dụng những quy định khác không trái với quy định của Chương này.

Ví dụ: việc xác định lỗi cố ý (Điều 10), thời hiệu truy cứu TNHS (Điều 27), về biện pháp tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm (Điều 47)… là những quy định áp dụng đối với cá nhân, nhưng cũng được áp dụng đối với pháp nhân không trái với quy định của Chương XI; áp dụng quy định tuổi chịu trách nhiệm hình sự (Điều 12) hay quy định về hình phạt tù (Điều 38), biện pháp quản chế (Điều 43)… là những ví dụ về những quy định chỉ giành riêng cho cá nhân mà không thể áp dụng đối với pháp nhân. Hoặc quy định về xóa án tích đối với pháp nhân thương mại, BLHS chỉ quy định nội dung có tính nguyên tắc về hình thức xóa án tích là đương nhiên và thời hạn xóa án tích 02 năm kể từ khi chấp hành xong bản án, thì khi áp dụng, người có thẩm quyền phải áp dụng đúng theo tính thần của BLHS 2015 về đương nhiên xóa án tích đối với pháp nhân.

5. Điều kiện chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại (Điều 75)

a) Điều kiện chịu TNHS của pháp nhân thương mại (Khoản 1 Điều 75)

Đây là một trong những quy định mang tính tiên quyết trong việc xem xét TNHS của pháp nhân.

Trên cơ sở tham khảo pháp luật hình sự và thực tiễn áp dụng pháp luật một số nước, để bảo đảm tính khả thi và phù hợp với điều kiện của Việt Nam, Điều 75 BLHS năm 2015 quy định 04 điều kiện pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự, trong đó 03 căn cứ đầu tiên là các căn cứ đặc thù khi xác định TNHS của pháp nhân, căn cứ cuối cùng là căn cứ chung áp dụng cho cả cá nhân và pháp nhân. Theo đó, chỉ truy cứu TNHS đối với pháp nhân khi hội đủ cả 04 căn cứ sau đây:

– Hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh pháp nhân thương mại

Để truy cứu TNHS đối với pháp nhân, điều đầu tiên người thực hiện hành vi phạm tội phải nhân danh pháp nhân, có nghĩa là dưới danh nghĩa của pháp nhân. Trường hợp thực hiện hành vi mang danh nghĩa của cá nhân thì không thể đặt vấn đề truy cứu TNHS đối với pháp nhân ngay cả khi họ là người đại diện hợp pháp của pháp nhân.

Theo quy định của pháp luật hiện hành, người thực hiện hành vi nhân danh pháp nhân có thể là người lãnh đạo, người điều hành pháp nhân, người được pháp nhân ủy quyền.

– Hành vi phạm tội được thực hiện vì lợi ích của pháp nhân thương mại

Hành vi phạm tội được thực hiện vì lợi ích của pháp nhân là việc người đại diện thực hiện hành vi nhằm mang lại lợi ích chung cho pháp nhân, kể cả trong trường hợp lợi ích của pháp nhân không phải là duy nhất. Ví dụ như: giảm chi phí nộp thuế cho pháp nhân, mang lại lợi ích cho pháp nhân khi thực hiện hành vi thao túng giá chứng khoán. Trường hợp thực hiện hành vi trên danh nghĩa pháp nhân nhưng lại mang lại lợi ích cho cá nhân thì cũng không thể truy cứu TNHS đối với pháp nhân.

– Hành vi phạm tội được thực hiện có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận của pháp nhân thương mại

 Hành vi phạm tội được thực hiện có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận của pháp nhân. Đây là căn cứ quan trọng để xác định một pháp nhân có bị truy cứu TNHS hay không. Nói cách khác, căn cứ này phản ánh dấu hiệu “lỗi” của pháp nhân thông qua việc đánh giá ý thức chủ quan của người đứng đầu, Ban lãnh đạo pháp nhân. Như vậy, pháp nhân chỉ phải chịu TNHS khi người đứng đầu pháp nhân hoặc Ban lãnh đạo của pháp nhân nhận thức rõ hành vi mà người đại diện thực hiện là trái pháp luật mà vẫn chỉ đạo, trực tiếp điều hành hoặc chấp thuận cho người đại diện thực hiện hành vi đó.

Trường hợp có đủ căn cứ cho rằng, người đại điện theo pháp luật của pháp nhân hoặc Ban lãnh đạo của pháp nhân đã thực hiện đầy đủ trách nhiệm theo quy định của pháp luật như: xây dựng đầy đủ hệ thống xử lý khí thải, nước thải ban hành nội quy, quy chế xử lý trước khi thải ra môi trường nhưng hành vi phạm tội vẫn xảy ra thì trong trường hợp này không thể đặt vấn đề xử lý TNHS đối với pháp nhân, và cũng không thể đặt vấn đề truy cứu TNHS đối với cá nhân người đại diện của pháp nhân đó.

– Chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 27 của Bộ luật này.

Căn cứ cuối cùng là chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 27 của Bộ luật này. Cũng giống như hành vi phạm tội của cá nhân đơn lẻ là muốn truy cứu TNHS một người nào, thì hành vi đó phải còn thời hiệu truy cứu TNHS.

Việc xác định thời hiệu truy cứu TNHS đối với pháp nhân được xác định thông qua việc xác định thời hiệu truy cứu TNHS của cá nhân nhưng chỉ trong phạm vi 33 tội danh được quy định tại Điều 76 BLHS.

Như vậy, để truy cứu TNHS đối với pháp nhân thương mại cần phải có đầy đủ 04 điều kiện như trên.

b) Mối quan hệ giữa TNHS của cá nhân người đại diện và pháp nhân thương mại (Khoản 2 Điều 75)

Đây là vấn đề gây tranh cãi nhiều nhất trong quá trình xây dựng, lấy ý kiến đối với dự thảo BLHS về TNHS của pháp nhân.

Khoản 2 Điều 75 BLHS năm 2015 quy định nguyên tắc xác định mối quan hệ giữa trách nhiệm hình sự của cá nhân và trách nhiệm của pháp nhân, cụ thể:

 “2. Việc pháp nhân thương mại chịu trách nhiệm hình sự không loại trừ trách nhiệm hình sự của cá nhân”.

Điều này có nghĩa là: thứ nhất, trong mọi trường hợp, người trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội luôn phải chịu trách nhiệm hình sự về cùng tội danh với pháp nhân trừ trường hợp thuộc một trong các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự; thứ hai, đối với người hoặc những người đứng đầu pháp nhân thì tùy từng trường hợp cụ thể để xử lý. Nếu những người này đều biết và thống nhất chỉ đạo, chấp thuận cho thực hiện thì họ cùng chịu trách nhiệm chung về tội danh với pháp nhân và người trực tiếp thực hiện tội phạm. Nếu có căn cứ cho rằng, trong số họ có người không biết hoặc phản đối việc thực hiện hành vi này thì họ không phải chịu trách nhiệm chung tội danh với pháp nhân.

Quy định này nhằm chống lại việc một số cá nhân phạm tội, lợi dụng vỏ bọc pháp nhân, đố tội cho pháp nhân để thoát tội.

6. Loại tội phạm mà pháp nhân thương mại phải chịu TNHS (Điều 76)

Đa số luật hình sự các nước theo hệ thống Thông luật (như Hoa kỳ, Canada, Australia…) và một số nước thuộc hệ thống luật thành văn (như Bỉ, Hà Lan, Thụy sỹ…) quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân đối với mọi tội phạm. Tuy nhiên, khi áp dụng pháp luật thì Tòa án phải đưa ra những quy định cụ thể để xác định những loại tội phạm mà pháp nhân có thể hoặc không thể thực hiện hoặc không thể truy cứu trách nhiệm hình sự. Ví dụ như: tại Anh, trách nhiệm hình sự không đặt ra trong các trường hợp sau: 1) những tội phạm nghiêm trọng bị trừng phạt bởi hình phạt tù hoặc hình phạt tử hình và không phải là hình phạt tiền; 2) một số loại tội phạm khác vì bản chất của nó mà pháp nhân không thể thực hiện được, như tội vi phạm chế độ một vợ một chồng, tội cưỡng dâm được quy định trong luật quy định các tội phạm về tình dục …

Tại phần riêng của Bộ luật hình sự Trung Quốc có 124 điều luật quy định về pháp nhân phạm tội, liên quan đến 125 tội danh, trong đó có 7 nội dung liên quan đến các tội gây nguy hại cho an toàn công cộng, 78 nội dung quy định liên quan đến các tội  phá hoại trật tự nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, 1 nội dung liên quan đến các tội xâm hại quyền dân chủ, quyền nhân thân, 31 nội dung liên quan đến các tội xâm hại trật tự quản lý xã hội, 3 nội dung liên quan đến quy định về các tội xâm hại an ninh quốc phòng và 5 nội dung liên quan đến các quy định về tham ô, hối lộ.

Ở Việt Nam, BLHS năm 2015 xác định TNHS của pháp nhân là vấn đề mới, qua trao đổi với các chuyên gia quốc tế thì thấy rằng, hầu hết đối với các quốc gia lần đầu tiên quy định TNHS của pháp nhân đều thể hiện “sự thận trọng cần thiết” bằng cách khoanh một số tội phạm mà: thứ nhất pháp nhân thường hay vi phạm (tính phổ biến); thứ hai, có mức độ nguy hiểm nhất định và thứ ba dễ chứng minh trên thực tế[17]. Do đó, Điều 76 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định 33 tội[18] mà pháp nhân phải chịu trách nhiệm hình sự gồm: Điều 188 (tội buôn lậu); Điều 189 (tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới); Điều 190 (tội sản xuất, buôn bán hàng cấm); Điều 191 (tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm); Điều 192 (tội sản xuất, buôn bán hàng giả); Điều 193 (tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm); Điều 194 (tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh); Điều 195 (tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi); Điều 196 (tội đầu cơ); Điều 200 (tội trốn thuế); Điều 203 (tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ); Điều 209 (tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu thông tin trong hoạt động chứng khoán); Điều 210 (tội sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán); Điều 211 (tội thao túng thị trường chứng khoán); Điều 213 (tội gian lận trong kinh doanh bảo hiểm); Điều 216 (tội trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động); Điều 217 (tội vi phạm quy định về cạnh tranh); Điều 225 (tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan); Điều 226 (tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp); Điều 227 (tội vi phạm các quy định về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên); Điều 232 (tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng); Điều 234 (Tội vi phạm quy định về quản lý, bảo vệ động vật hoang dã); Điều 235 (tội gây ô nhiễm môi trường); Điều 237 (tội vi phạm phòng ngừa, ứng phó, khắc phục sự cố môi trường); Điều 238 (tội vi phạm quy định về bảo vệ an toàn công trình thủy lợi, đê điều và phòng, chống thiên tai; vi phạm quy định về bảo vệ bờ, bãi sông); Điều 239 (tội đưa chất thải vào lãnh thổ Việt Nam); Điều 242 (tội huỷ hoại nguồn lợi thuỷ sản); Điều 243 (tội huỷ hoại rừng); Điều 244 (tội vi phạm quy định về quản lý, bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm); Điều 245 (tội vi phạm các quy định về quản lý khu bảo tồn thiên nhiên); Điều 246 (tội nhập khẩu, phát tán các loài ngoại lai xâm hại), Điều 300 (tội tài trợ khủng bố) và Điều 324(tội rửa tiền).


[17] Xem Báo cáo kết quả Hội thảo “trách nhiệm hình sự của pháp nhân” – những vấn đề đặt ra” giữa Bộ Tư pháp Việt Nam và các chuyên gia Pháp (tháng 06/2013)

[18] Trong lần thông qua vào tháng 11/2015, BLHS năm 2015 quy định 31 tội; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS số 100/2015/QH13 lần này, Quốc hội đã bổ sung thêm 02  tội mới là tội tài trợ khủng bố và tội rửa tiền.

Các tội phạm này cũng tương đồng với lĩnh vực hoạt động chủ yếu của pháp nhân thương mại và đáp ứng yêu cầu của thực tiễn về tính phổ biến và nhu cầu phòng ngừa tội phạm.

Về kỹ thuật thể hiện trong cấu thành của 33 tội nêu trên đều có một khung riêng quy định loại và mức hình phạt áp dụng đối với pháp nhân. Như vậy, BLHS năm 2015 không phải xây dựng cấu thành tội phạm riêng cho pháp nhân mà chỉ cần quy định mức hình phạt theo các khung tương ứng khi xử lý hành vi đối với cá nhân.

7. Về các hình phạt áp dụng đối với pháp nhân thương mại phạm tội

Vấn đề này, pháp luật hình sự của các nước quy định khác nhau, có nước chỉ quy định hình phạt tiền là hình phạt duy nhất áp dụng như các nước theo truyền thống common law và Trung Quốc, trong khi các nước khác lại quy định một hệ thống hình phạt có thể áp dụng đối với các thực thể này như Pháp, Bỉ, Hà Lan… Ở Việt Nam, theo đề xuất chủ thể là pháp nhân là các pháp nhân thương mại là tổ chức kinh tế độc lập, hoạt động vì mục đích lợi nhuận và không sử dụng ngân sách nhà nước, cho nên hình phạt mang tính kinh tế được coi là phù hợp và hiệu quả nhất và cũng phù hợp với phạm vi tội phạm được xác định là có thể truy cứu đối với pháp nhân. Đối với hình phạt tước giấy phép có thời hạn hoặc tước giấy phép vĩnh viễn chỉ áp dụng trong những trường hợp đặc biệt nghiêm trọng và không còn cách nào khác. Bên cạnh các hình phạt chính, pháp nhân phạm tội còn có thể bị áp dụng các hình phạt bổ sung và các biện pháp tư pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt chính.

Điều 33 BLHS quy định hệ thống các hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội:

– Các hình phạt chính bao gồm:

+ Phạt tiền;

 + Đình chỉ hoạt động có thời hạn;

+ Đình chỉ hoạt động vĩnh viễn;

 – Các hình phạt bổ sung bao gồm:

+ Cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định;

+ Cấm huy động vốn;

+ Phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính.

Đồng thời, tại các điều từ Điều 77 đến Điều 79 BLHS quy định cụ thể điều kiện áp dụng các hình phạt chính đối với pháp nhân.

a) Các hình phạt chính

– Hình phạt tiền (Điều 77)

Về nguyên tắc, hình phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính hoặc hình phạt bổ sung đối với pháp nhân thương mại phạm tội. Mức tiền phạt được quyết định căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm và có xét đến tình hình tài chính của pháp nhân thương mại phạm tội, sự biến động của giá cả nhưng không được thấp hơn 50.000.000 đồng.

Căn cứ vào nguyên tắc chung như vậy, BLHS năm 2015 đã quy định cụ thể mức phạt tiền trong từng tội danh cụ thể tương ứng với từng khung hình phạt cụ thể. Ví dụ mức hình phạt đối với pháp nhân khi phạm tội trốn thuế:

“…

5. Pháp nhân thương mại phạm tội quy định tại Điều này, thì bị phạt như sau:

a) Thực hiện một trong các hành vi quy định tại khoản 1 Điều này trốn thuế với số tiền từ 200.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc từ 100.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi trốn thuế hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 188, 189, 190, 191, 192, 193, 194, 195 và 196 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 300.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng;

b) Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm a, b, d và đ khoản 2 Điều này, thì bị phạt tiền từ 1.000.000.000 đồng đến 3.000.000.000 đồng;

c) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này, thì bị phạt tiền từ 3.000.000.000 đồng đến 10.000.000.000 đồng hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn từ 06 tháng đến 03 năm;

d) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại Điều 79 của Bộ luật này, thì bị đình chỉ hoạt động vĩnh viễn;

đ) Pháp nhân thương mại còn có thể bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy động vốn từ 01 năm đến 03 năm.”.

Như vậy, căn cứ vào hành vi mà người đại diện pháp nhân thực hiện phạm vào khung nào, thì cơ quan tiến hành tố tụng sẽ căn cứ vào mức phạt tiền quy định cho từng khung để quyết định một mức phạt cụ thể.

– Đình chỉ hoạt động có thời hạn (Điều 78)

Hình phạt đình chỉ hoạt động có thời hạn là tạm dừng hoạt động của pháp nhân thương mại trong một hoặc một số lĩnh vực mà pháp nhân thương mại phạm tội gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe con người, môi trường hoặc an ninh, trật tự, an toàn xã hội và hậu quả gây ra có khả năng khắc phục trên thực tế; Thời hạn đình chỉ hoạt động từ 06 tháng đến 03 năm.

Trên tinh thần xử lý TNHS đối với pháp nhân phải tính đến những tác động tiêu cực có thể xảy ra cho xã hội như tình trạng mất việc làm của người lao động, giảm tiền thuế…nên BLHS quy định áp dụng hình phạt này trên tinh thần khuyến  khích pháp nhân khắc phục sai phạm, sửa chữa lỗi lầm để tiếp tục sản xuất kinh doanh và hậu quả gây ra có khả năng khắc phục trên thực tế. Trong trường hợp pháp nhân hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác nhau, thì lĩnh vực nào vi phạm thì tạm đình chỉ lĩnh vực đó.

– Đình chỉ hoạt động vĩnh viễn (Điều 79)

Điều 79 quy định hình phạt đình chỉ hoạt động vĩnh viễn, theo đó đình chỉ hoạt động vĩnh viễn là chấm dứt hoạt động của pháp nhân thương mại.

Pháp nhân thương mại bị áp dụng hình phạt này trong hai trường hợp:

+ Một hoặc một số lĩnh vực mà pháp nhân thương mại phạm tội gây thiệt hại hoặc có khả năng thực tế gây thiệt hại đến tính mạng của nhiều người, gây sự cố môi trường hoặc gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội và không có khả năng khắc phục hậu quả gây ra.

BLHS quy định yếu tố hậu quả là gây thiệt hại hoặc có khả năng gây thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng (thiệt hại tính mạng của nhiều người, gây sự cố môi trường… ) và dấu hiệu không có khả năng khắc phục hậu quả (sự cố) là hai căn cứ để cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng hình phạt này.

+ Pháp nhân thương mại được thành lập chỉ để thực hiện tội phạm thì bị đình chỉ vĩnh viễn toàn bộ hoạt động, ví dụ như: pháp nhân được thành lập chỉ để thực hiện tội phạm như chỉ để thực hiện hành vi buôn lậu, trốn thuế …

b) Về các hình phạt bổ sung

– Hình phạt cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định (Điều 80)

Điều 80 BLHS quy định hình phạt cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định khi xét thấy nếu để pháp nhân thương mại bị kết án tiếp tục kinh doanh hoặc hoạt động trong lĩnh vực đó, thì có thể gây nguy hại cho tính mạng, sức khỏe của con người hoặc cho xã hội. Tùy từng trường hợp cụ thể, Tòa án quyết định lĩnh vực cụ thể bị cấm kinh doanh hoặc cấm hoạt động;

Thời hạn cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định là từ 01 năm đến 03 năm, kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

– Cấm huy động vốn (Điều 81)

Điều 81 quy định hình phạt bổ sung cấm huy động vốn, được áp dụng khi xét thấy nếu để pháp nhân thương mại bị kết án huy động vốn thì có nguy cơ tiếp tục phạm tội.

* Các hình thức cấm huy động vốn bao gồm:

+ Cấm vay vốn tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài hoặc các quỹ đầu tư;

+ Cấm phát hành, chào bán chứng khoán;

+ Cấm huy động vốn khách hàng;

+ Cấm liên doanh, liên kết trong và ngoài nước;

+ Cấm hình thành quỹ tín thác bất động sản. Tùy từng trường hợp cụ thể Tòa án quyết định áp dụng một hoặc một số hình thức cấm huy động vốn quy định ở trên;

* Thời hạn cấm huy động vốn là từ 01 năm đến 03 năm, kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

8. Các biện pháp tư pháp áp dụng đối với pháp nhân

Điều 82 quy định các biện pháp tư pháp áp dụng đối với pháp nhân thương mại phạm tội gồm:

 – Các biện pháp tư pháp quy định tại Điều 47 và Điều 48 của Bộ luật này;

 – Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu;

 – Buộc thực hiện một số biện pháp nhằm khắc phục, ngăn chặn hậu quả tiếp tục xảy ra.

Căn cứ vào từng trường hợp phạm tội cụ thể, Tòa án có thể quyết định buộc pháp nhân thương mại phạm tội phải thực hiện một hoặc một số biện pháp tư pháp áp dụng chung cho cả cá nhân quy định tại Điều 47 (tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm) và Điều 48 (Trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, buộc công khai xin lỗi).

Đồng thời có thể áp dụng một hoặc nhiều biện pháp sau đây:

– Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu (Khoản 2 Điều 82)

   Tòa án có thể quyết định áp dụng biện pháp tư pháp buộc pháp nhân thương mại phạm tội phải khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do hành vi phạm tội của mình gây ra.

– Buộc thực hiện một số biện pháp nhằm khắc phục, ngăn chặn hậu quả tiếp tục xảy ra (Khoản 3 Điều 82)

+ Buộc tháo dỡ công trình, phần công trình xây dựng không có giấy phép hoặc xây dựng không đúng với giấy phép;

+ Buộc khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, lây lan dịch bệnh;

+ Buộc đưa ra khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoặc tái xuất hàng hóa, vật phẩm, phương tiện được đưa vào lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nhập khẩu trái với quy định của pháp luật hoặc được tạm nhập, tái xuất nhưng không tái xuất theo đúng quy định của pháp luật; hàng hóa nhập khẩu, quá cảnh xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, hàng hóa giả mạo quyền sở hữu trí tuệ, phương tiện, nguyên liệu, vật liệu nhập khẩu được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hóa giả mạo về sở hữu trí tuệ sau khi đã loại bỏ yếu tố vi phạm;

+ Buộc tiêu hủy hàng hóa, vật phẩm gây hại cho sức khỏe con người, vật nuôi, cây trồng và môi trường, văn hóa phẩm có nội dung độc hại hoặc tang vật khác thuộc đối tượng bị tiêu hủy theo quy định của pháp luật;

+ Buộc loại bỏ yếu tố vi phạm trên hàng hóa, bao bì hàng hóa, phương tiện kinh doanh, vật phẩm;

+ Buộc thu hồi sản phẩm, hàng hóa vi phạm đang lưu thông trên thị trường.

9. Căn cứ quyết định hình phạt và các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự áp dụng đối với pháp nhân

a) Về căn cứ quyết định hình phạt

Kế thừa căn cứ quyết định hình phạt của cá nhân phạm tội, Điều 83 Bộ luật hình sự quy định khi quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ vào quy định của Bộ luật này, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, việc chấp hành pháp luật của pháp nhân thương mại và các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự áp dụng đối với pháp nhân thương mại.

Như vậy, so với các căn cứ quyết định hình phạt đối với cá nhân, căn cứ quyết định hình phạt đối với pháp nhân có khác một điểm là “việc chấp hành pháp luật của pháp nhân thương mại”. Việc chấp hành pháp luật của pháp nhân được đánh giá theo nghĩa rộng, có thể là chấp hành nghĩa vụ đóng thuế; về an toàn, kỷ luật lao động thậm chí cả trách nhiệm xã hội của pháp nhân.

b) Về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự

Điều 84 quy định các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự áp dụng đối với pháp nhân gồm:

– Đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;

– Tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;

– Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;

– Tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án;

– Có nhiều đóng góp trong việc thực hiện chính sách xã hội.

Đồng thời quy định khi quyết định hình phạt, Tòa án có thể coi các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong bản án.

Cũng như nguyên tắc áp dụng các tình tiết giảm nhẹ áp dụng đối với cá nhân, Bộ luật hình sự năm 2015 cũng ghi nhận nguyên tắc áp dụng đối với pháp nhân: những tình tiết là dấu hiệu định tội hoặc định khung thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ trong khi quyết định hình phạt.

c) Về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự

Điều 85 quy định chỉ các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự sau đây mới được áp dụng đối với pháp nhân thương mại gồm 06 tình tiết:

– Câu kết với pháp nhân thương mại khác để phạm tội;

– Cố ý thực hiện tội phạm đến cùng;

– Phạm tội 02 lần trở lên;

– Tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm;

– Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, thiên tai, dịch bệnh hoặc những khó khăn đặc biệt khác của xã hội để phạm tội;

– Dùng thủ đoạn tinh vi để phạm tội hoặc nhằm trốn tránh, che giấu tội phạm.

Cũng như nguyên tắc áp dụng các tình tăng nặng áp dụng đối với cá nhân, Bộ luật hình sự năm 2015 cũng ghi nhận nguyên tắc các tình tiết tăng nặng đã được Bộ luật này quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung hình phạt thì không được coi là tình tiết tăng nặng.

10. Quyết định hình phạt trong trường hợp pháp nhân thương mại phạm nhiều tội, tổng hợp hình phạt của nhiều bản án, miễn hình phạt, xóa án tích đối với pháp nhân

a) Quyết định hình phạt trong trường hợp pháp nhân phạm nhiều tội

Kế thừa nguyên tắc chung khi quyết định hình phạt đối với cá nhân, Điều 86 BLHS quy địnhkhi xét xử cùng 01 lần pháp nhân thương mại phạmnhiều tội, Tòa án quyết định hình phạt đối với từng tội và tổng hợp hình phạt theo nguyên tắc:

– Đối với hình phạt chính:

“a) Nếu các hình phạt đã tuyên cùng là phạt tiền thì các khoản tiền phạt được cộng lại thành hình phạt chung. Hình phạt tiền không tổng hợp với các hình phạt khác;

b) Nếu các hình phạt đã tuyên là đình chỉ hoạt động có thời hạn và đình chỉ hoạt động vĩnh viễn trong cùng lĩnh vực hoặc hình phạt đã tuyên cùng là đình chỉ hoạt động vĩnh viễn trong cùng lĩnh vực thì hình phạt chung là đình chỉ hoạt động vĩnh viễn trong lĩnh vực đó;

c) Nếu các hình phạt đã tuyên là đình chỉ hoạt động có thời hạn trong cùng lĩnh vực thì được tổng hợp thành hình phạt chung nhưng không vượt quá 04 năm;

d) Nếu trong số các hình phạt đã tuyên có hình phạt đình chỉ hoạt động vĩnh viễn thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 79 của Bộ luật này thì hình phạt chung là đình chỉ hoạt động vĩnh viễn đối với toàn bộ hoạt động;

đ) Nếu các hình phạt đã tuyên là đình chỉ hoạt động có thời hạn trong các lĩnh vực khác nhau hoặc đình chỉ hoạt động vĩnh viễn trong các lĩnh vực khác nhau hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn và đình chỉ hoạt động vĩnh viễn trong các lĩnh vực khác nhau thì không tổng hợp.”

– Đối với hình phạt bổ sung:

+ Nếu các hình phạt đã tuyên là cùng loại thì hình phạt chung được quyết định trong giới hạn do Bộ luật này quy định đối với hình phạt đó; riêng đối với hình phạt tiền thì các khoản tiền được cộng lại thành hình phạt chung;

+ Nếu các hình phạt đã tuyên là khác loại thì pháp nhân thương mại bị kết án phải chấp hành tất cả các hình phạt đã tuyên.

b) Tổng hợp hình phạt của nhiều bản án

Điều 87 Bộ luật hình sự quy định 03 trường hợp:

Trường hợp pháp nhân thương mại đang chấp hành một bản án mà lại bị xét xử về tội đã phạm trước khi có bản án này, thì Tòa án quyết định hình phạt đối với tội đang bị xét xử, sau đó quyết định hình phạt chung theo quy định tại Điều 86 của Bộ luật này.

Thời gian đã chấp hành hình phạt của bản án trước về đình chỉ hoạt động có thời hạn, cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy động vốn được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt chung.

Khi xét xử một pháp nhân thương mại đang phải chấp hành một bản án mà lại thực hiện hành vi phạm tội mới, Tòa án quyết định hình phạt đối với tội mới, sau đó tổng hợp với phần hình phạt chưa chấp hành của bản án trước rồi quyết định hình phạt chung theo quy định tại Điều 86 của Bộ luật này.

Trong trường hợp một pháp nhân thương mại phải chấp hành nhiều bản án đã có hiệu lực pháp luật mà các hình phạt của các bản án chưa được tổng hợp, thì Chánh án Tòa án có thẩm quyền ra quyết định tổng hợp hình phạt của các bản án theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 86 BLHS.

c) Miễn hình phạt

Trên cơ sở cân nhắc những tác động tiêu cực của việc truy cứu trách nhiệm hình sự và áp dụng hình phạt đối với pháp nhân phạm tội, Điều 88 BLHS quy định điều kiện miễn hình phạt đối với pháp nhân thương mại theo hướng mở rộng hơn đối với cá nhân.

Theo đó, pháp nhân thương mại phạm tội có thể được miễn hình phạt khi đã khắc phục toàn bộ hậu quả và đã bồi thường toàn bộ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra. Quy định này nhằm khuyến khích pháp nhân tích cực sửa chữa, khắc phục hậu quả, bồi thường toàn bộ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra nhằm giảm tối đa các tác động tiêu cực có thể mang lại từ việc áp dụng hình phạt.

d) Xóa án tích (Điều 92)

Nhằm tạo điều kiện thuận lợi đối với pháp nhân phạm tội, đã chấp hành xong bản án và các quyết định khác của Tòa án, BLHS quy định điều kiện xóa án tích đối với pháp nhân theo hướng tạo điều kiện thuận lợi để pháp nhân có thể khôi phục xản xuất kinh doanh.

Điều 89 BLHS quy định pháp nhân thương mại bị kết án đương nhiên được xóa án tích nếu trong thời hạn 02 năm kể từ khi chấp hành xong hình phạt chính, hình phạt bổ sung, các quyết định khác của bản án hoặc từ khi hết thời hiệu thi hành bản án mà pháp nhân thương mại không thực hiện hành vi phạm tội mới.

Như vậy, trong 03 hình thức xóa án tích được quy định trong BLHS năm 2015 pháp nhân bị kết án sau khi đã chấp hành xong bản án sẽ được áp dụng hình thức đương nhiên xóa án tích, nghĩa là không buộc pháp nhân phải đi xin Tòa án đã ra bản án cấp giấy chứng nhận xóa án tích như trước kia, mà khi có nhu cầu thì chỉ cần đến cơ quan quản lý dữ liệu lý lịch tư pháp cấp phiếu lý lịch tư pháp. Điều này đòi hỏi phải tiếp tục sửa Luật lý lịch tư pháp, Luật thi hành án hình sự để đảm bảo sự đồng bộ của hệ thống pháp luật./.


Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *